Người La Chí đã sinh sống ở miền núi phía bắc nước ta từ lâu đời.
Về nguồn gốc dân tộc, căn cứ vào tên tự nhận là Sơn Dao, có thể gợi mở nhiều suy nghĩ về nguồn gốc dân tộc Sán Dìu. Nhà nghiên cứu Ma Khánh Bằng phỏng đoán, người Sán Dìu có nguồn gốc là người Dao. Từ xưa, cộng đồng tộc người Dao bị nhà nước phong kiến Trung Quốc thống trị, đàn áp khiến nhóm người này phiêu bạt các nơi để mưu sinh và phát triển. Người Sán Dìu là một trong số những nhóm đó.
Dân tộc Sán Dìu
Tên thường gọi: Sán Dìu
Tên tự gọi: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân).
Tên gọi khác: Trại, Trại Ðất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ...
Ngôn ngữ: Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng).
Dân số toàn quốc: 183.004 người; cư trú lâu đời tại các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc: Quảng Ninh, Tuyên Quang, Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc,..
Dân tộc Sán Dìu di cư vào Lâm Đồng từ thập niên 90 của thế kỷ XX, hiện có hơn 600 người, cư trú chủ yếu tại huyện Di Linh.
Cư trú: Huyện Di Linh
Hoạt động sản xuất: canh tác ruộng khô : lúa, ngô, khoai, sắn...
Mặc: Khăn đen, áo dài (đơn hoặc kép). Ðồ trang trí gồm vòng cổ, vòng tay, hoa tai và dây xà tích bằng bạc.
Nam giới ăn mặc như người Việt: búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng.
Ở: Nhà thường có tường hay hàng rào. ở nhà đất trình tường, thưng ván.
Cưới xin: Ðám cưới gồm nhiều nghi lễ. lễ khai hoa
Ma chay: Nhà mồ có mái bằng, lợp lá rừng. Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi và nếu chưa chọn được ngày tốt thì chôn tạm ở chân đồi hay bờ ruộng.
Thờ cúng: Trên bàn thờ thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và táo quân.
Lịch: Người Sán Dìu theo âm lịch.
Văn nghệ: Hát soọng cô,