Người La Chí đã sinh sống ở miền núi phía bắc nước ta từ lâu đời. Trừ bộ phận họ Lùng vốn gốc là người Nùng đã di cư từ Nà Cô (Vân Nam, Trung Quốc) sang Việt Nam cách đây khoảng 100-120 năm và họ Vương vốn gốc là người Hoa mới sang nước ta cách đây không lâu, đa số người La Chí còn lại đều được coi là cư dân gốc tại đây.

Dân tộc La Chí

 

- Tên thường gọi: La Chí

- Tên tự gọi: Cù tê.

- Tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá.

- Dân số toàn quốc (2019): 15.126 người; cư trú chủ yếu ở Hà Giang, Lào Cai.

- Ở Lâm Đồng, dân tộc La Chí chỉ có 01 người, hiện cư trú ở huyện Đức Trọng.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo. Nhưng hiện nay, dân tộc La Chí hầu như không còn nhớ tiếng mẹ đẻ, chủ yếu dùng tiếng Nùng, Dao để giao tiếp.

- Hoạt động sản xuất: Làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước.

- Ẩm thực: Dân tộc La Chí ăn cơm là chính. Món ăn đặc trưng là da trâu sấy khô và thịt ướp chua. Đồ uống phổ biến là rượu. Đồ hút là thuốc lá dùng bằng tẩu hoặc điếu cày.

- Trang phục: Ðàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải, đội khăn cuốn hay khăn xếp thích đeo túi vải chàm có viền đỏ để đựng diêm, thuốc và các đồ lặt vặt. Phụ nữ mặc quần, một số ít còn mặc váy, y phục truyền thống là áo dài tứ thân, xẻ giữa, yếm thêu, thắt lưng bằng vải. Đặc biệt, nữ giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét, màu chàm đen.

- Nhà ở: Kiểu kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt. Mỗi nhà gồm hai phần bằng nhau, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần nhà trệt là nơi làm bếp. Khi lên nhà mới, phải mời thầy cúng.

- Thờ cúng: cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết. Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Trong một nhà có nhiều bàn thờ cho mỗi người đàn ông.

- Văn nghệ dân gian: Ngày tết, lễ trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng được dùng phổ biến.

- Trò chơi truyền thống: Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ em thích chơi ống phốc.

 

Các bài viết liên quan

Về nguồn gốc dân tộc, căn cứ vào tên tự nhận là Sơn Dao, có thể gợi mở nhiều suy nghĩ về nguồn gốc dân tộc Sán Dìu.

Người Hà Nhì có quá trình di cư diễn ra trong một thời gian dài, bằng các con đường khác nhau và đến nhiều nước, trong đó có Việt Nam.

Về nguồn gốc tộc người Khơ Mú ở Việt Nam hiện vẫn còn tồn tại một số quan điểm khác nhau.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). D

Người Sán Chay cư trú rải rác, xen lẫn với các dân tộc ít người khác, tại một số địa phương thuộc các tỉnh nằm ở phần đông nam vùng Đông Bắc Việt Nam, như: Tuyên Quang (ở các huyện Sơn Dương, Yên S

Người Giáy có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư vào Việt Nam từ khoảng 300 năm trước.

Tên gọi khác: Tên tự gọi: Xinh Mun Tên gọi khác: Puộc, Xá, Pnạ Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Xinh Mun giỏi tiếng Thái.

Từ những tư liệu lịch sử, dân tộc học,...