- Thành phố Đà Lạt
Đà Lạt là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lang Biang, có độ cao khoảng 1.500m so với mực nước biển; có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 12 phường và 4 xã (Tà Nung, Trạm Hành, Xuân Thọ, Xuân Trường). Đà Lạt cách TP. Hồ Chí Minh 307 km về phía bắc, cách Hà Nội khoảng 1.500 km, cách Đà Nẵng 658 km về phía nam. Về phía đông và đông nam, Đà Lạt giáp huyện Đơn Dương, phía tây giáp huyện Lâm Hà, phía nam giáp huyện Đức Trọng, phía bắc giáp huyện Lạc Dương.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới xavan, Đà Lạt có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình tháng ở Đà Lạt luôn dưới 23°C, ngay cả trong những tháng nóng nhất. Một hiện tượng thời tiết đáng chú ý ở Đà Lạt là sương mù, trung bình một năm có từ 80 - 85 ngày, xuất hiện nhiều nhất vào khoảng thời gian từ tháng 2 tới tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 10 hàng năm. Đặc điểm này đã khiến cho thành phố trở nên mơ màng, lãng mạn, thu hút du khách. Đây chính là nguồn cảm hứng cho thi ca nhạc họa khi viết về Đà Lạt và đặt cho thành phố cái tên: "Thành phố mù sương". Khí hậu cao nguyên ôn hòa quanh năm, với thiên nhiên lãng mạn cũng là lý do khiến toàn quyền Pháp ở Đông Dương Pal Doumer đã quyết định chọn cao nguyên Lâm Viên (Đà Lạt bây giờ) để xây dựng trạm nghỉ dưỡng ở Đông Dương cho người Pháp, theo đề nghị của bác sĩ Alexandre Yersin – người đã tìm ra Đà Lạt vào năm 1893. Sau đó, người Pháp đã cho xây dựng ở đây hàng loạt những căn biệt thự, những công trình kiến trúc mang phong cách Pháp. Khí hậu, thổ nhưỡng, vị trí địa lý đã mang đến cho Đà Lạt những giá trị đặc sắc về thiên nhiên, con người, di sản mà không nơi nào có được. Những tên gọi: Tiểu Paris, Thành phố ngàn hoa, Thành phố trong rừng thông,.. đã phần nào phản ánh được những lợi thế của Đà Lạt về kiến trúc, nông nghiệp, du lịch,…
Về dân cư[1], trước kia, vùng đất này vốn là địa bàn cư trú của những cư dân người Lạch, người Chil thuộc dân tộc K'ho. Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch (ý chỉ con suối Cam Ly). Theo ngôn ngữ của người Lạch (Lạt/Làc), Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa là "nước của người Lạt" hoặc "suối của người Lạt". Sau khi người Pháp khám ra Đà Lạt, trong nửa đầu thế kỷ XX, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương thời đó. Dân cư theo đó đông dần lên, nhiều hơn về dân tộc. Năm 1893 khi A.Yersin khám phá ra Đà Lạt, chỉ thưa thớt vài làng của người Lạch ở chân núi Lang Biang. Đến 1906, khi Đà Lạt lần nữa được chọn làm nơi nghỉ dưỡng của người Pháp (trước đó đã dừng vào năm 1902), dân cư Đà Lạt cơ bản vẫn là người Lạch, thêm một số công chức, sĩ quan Pháp và người Việt. Năm 1923, Đà Lạt có dân số 1.500 người nhưng đến 1939 đã tăng lên 11.500 người. Trong khoảng thời gian ngắn Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra (1939 - 1945), dân cư Đà Lạt có xu hướng giảm sút chỉ còn 5.200 người. Sau chiến tranh, năm 1952, dân cư Đà Lạt đã lên đến 25.041 người, bao gồm người Châu Âu (1.217 người), người Hoa (22.232 người), người Kinh (840 người) và dân tộc thiểu số địa phương. Tính đến năm 2019, dân số Đà Lạt là 226.578 người, 35 dân tộc, trong đó, người Kinh: 217.578 người, chiếm 96,02%; 34 DTTS: 9.000 người, chủ yếu là người K'ho Lạch, Hoa, Mường, Tày, Nùng, Thái; các dân tộc còn lại chỉ có một vài người; có 01 xã DTTS (Tà Nung) và 03 thôn DTTS.
- Huyện Lạc Dương
Huyện Lạc Dương nằm ở phía đông bắc tỉnh Lâm Đồng; Diện tích tự nhiên là 1.313,94 km²; nằm ở độ cao trung bình 1.700m so với mực nước biển, Lạc Dương được xem là nóc nhà của Tây Nguyên, nên có nhiều ngọn núi cao, như: Bidoup: 2.287m, Lang Biang: 2.167m, Chư Yen Du: 2.075m. Địa hình của Lạc Dương tương đối phức tạp, với 3 dạng chính là: Núi cao, đồi thấp đến trung bình và thung lũng. Dạng địa hình núi cao là khu vực có độ dốc lớn, có độ cao từ 1.500m - 2.200m so với mặt nước biển; hầu hết diện tích ở dạng này là rừng đầu nguồn, có vai trò quan trọng trong bảo vệ nguồn nước hệ thống sông Đa Nhim. Dạng địa hình đồi thấp đến trung bình là dãy đồi hoặc núi ít dốc, có độ cao trung bình 1.000m với đất bazan nâu đỏ, chiếm 10 - 12% tổng diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía nam, tây bắc của huyện. Dạng địa hình này thích hợp để trồng cây lâu năm (cà phê, chè, cây ăn quả,...). Địa hình thung lũng chiếm khoảng 3% tổng diện tích toàn huyện, phân bố ven các sông, suối lớn, chủ yếu là các loại đất phù sa, nguồn nước mặt khá dồi dào, khá thích hợp với phát triển lúa nước và các loại hoa màu ngắn ngày. Khí hậu của Lạc Dương khá ổn định ở các mùa trong năm; nhiệt độ trung bình từ 18oC – 22°C, biên độ dao động giữa ngày và đêm lớn khoảng 9°C.
Theo số liệu điều tra dân số, nhà ở năm 2019, Lạc Dương có 27.956 người, 30 dân tộc cư trú. Dân tộc Kinh có 8.233 người, chiếm 29.44% dân số toàn huyện; 29 DTTS có 19.723 người, chiếm 70,56%. Dân tộc K'ho (nhóm Lạch, Chil) đông nhất với 18.911 người (chiếm 95,89% người DTTS toàn huyện), còn lại là dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng,…. Lạc Dương có 6 đơn vị hành chính cấp xã đều là xã DTTS: Thị trấn Lạc Dương, 5 xã: Lát, Đạ Nhim, Đạ Sar, Đạ Chais, Đưng K'Nớ; với 31 thôn DTTS. Lạc Dương là địa bàn cư trú lâu đời của nhóm K'ho Lạch và K'ho Chil. Với lợi thế gần Đà Lạt, những năm gần đây, Lạc Dương đã và đang khai thác rất tốt văn hóa các dân tộc K'ho trên địa bàn huyện vào du lịch, như: Biểu diễn cồng chiêng, trình diễn và bán sản phẩm nghề dệt thổ cẩm thủ công, ẩm thực, đua ngựa không yên,…Huyện Lạc Dương còn phối hợp với Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà tổ chức các tour du lịch khám phá, trải nghiệm đời sống của đồng bào K'ho Chil đang sinh sống ở vùng đệm và vùng lõi của Vườn.
Cà phê, dược liệu, cây ăn trái (hồng giòn), sản vật của rừng (nấm, mật ong,…) cũng đã được đồng bào dân tộc K'ho đầu tư khoa học kỹ thuật, truyền thông quáng bá,… nên cũng đã tạo ra được những sản phẩm có thương hiệu trên thị trường, đời sống của đồng bào ngày càng được cải thiện.
- Huyện Đơn Dương
Đơn Dương nằm ở phía bắc cao nguyên Di Linh; giáp tỉnh Ninh Thuận và các huyện Đức Trọng, Lạc Dương và thành phố Đà Lạt; Diện tích tự nhiên 611,85 km². Nằm ở độ cao trên 1.000 m, Đơn Dương có 3 dạng địa hình chính là núi cao, đồi thoải lượn sóng và thung lũng. Về đơn vị hành chính, sau ngày 01/12/2024, xã Pró sáp nhập vào xã Quảng Lập, nên Đơn Dương hiện còn 9 đơn vị hành chính cấp xã là: Thị trấn Thạnh Mỹ (huyện lỵ), thị trấn Dran và 7 xã: Ka Đô, Ka Đơn, Quảng Lập, Đạ Ròn, Lạc Lâm, Lạc Xuân, Tu Tra.
Đơn Dương được biết đến là huyện nông thôn mới đầu tiên của Tây Nguyên và là huyện nông thôn mới thứ 6 cả nước (2015), hiện đang được xây dựng huyện nông thôn mới kiểu mẫu. Toàn huyện có gần 17.000 ha đất sản xuất nông nghiệp; chủ yếu trồng cây công nghiệp (cà phê, trà, tiêu, dâu tằm); rau củ quả đặc sản tương tự Đà Lạt. Đơn Dương có 11.170 ha rau hoa ứng dụng công nghệ cao, chiếm 95% diện tích đất canh tác toàn huyện, đứng đầu cả tỉnh, gồm: Có 2.728 ha nhà kính, nhà lưới; 30 ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ; 03 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; 124 cơ sở được chứng nhận VietGAP với diện tích 641,8 ha; có 36 chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản địa phương… Chăn nuôi bò sữa cũng rất phát triển ở Đơn Dương, chiếm đến 70% tổng đàn bò sữa của tỉnh[2], tập trung ở xã Tu Tra, Đạ Ròn, Lạc Xuân, Quảng Lập và thị trấn Thạnh Mỹ. Thu nhập bình quân đầu người ở Đơn Dương hiện nay là 72 triệu đồng/người/năm.
Dân số toàn huyện là 107.281 người (2019), trong đó 29 DTTS có là 35.479 người, chiếm 33,08% dân cư toàn huyện. Đơn Dương là địa bàn cư trú lâu đời, tập trung đông dân tộc Chu Ru với 11.710 người, chiếm 33,01% người DTTS toàn huyện. Ngoài ra, trên địa bàn còn có các dân tộc K'ho (nhóm Chil, Srê), Tày, Nùng, Hoa, Khmer, Mường, Raglai,… Đơn Dương có 06 xã DTTS và 35 thôn DTTS.
Trên địa bàn huyện Đơn Dương, Sở VH-TT&DL Lâm Đồng đã xây dựng Làng Văn hóa dân tộc Chu Ru để trưng bày, giới thiệu, bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc Chu Ru. Dân tộc Chu Ru hiện là dân tộc duy nhất ở Lâm Đồng còn đang duy trì nghề gốm mộc thủ công (thôn Krăng Gọ, xã Quảng Lập), nghề làm nhẫn bạc (thôn Ma Đanh, xã Tu Tra) tuy nhiên cũng gặp nhiều khó khăn.
Năm 1997, người dân ở địa phương đã phát hiện ra một phế tích của người Chăm ở thôn Đông Hồ, xã Quảng Lập. Khu phế tích này cùng với một số ngôi đền ở xã Đà Loan (Đức Trọng) – gần nơi cộng đồng Chu Ru cư trú – cũng đặt ra nhiều câu hỏi về mối quan hệ giữa người Chu Ru và người Chăm tron quá khứ.
- Huyện Đức Trọng
Đức Trọng là huyện nằm ở vùng giữa của Lâm Đồng, giáp thành phố Đà Lạt ở phía bắc, ở phía nam giáp huyện Di Linh và tỉnh Bình Thuận, giáp Đơn Dương ở phía đông, phía Tây giáp huyện Lâm Hà; nằm ở độ cao từ 600 – 1000m so với mực nước biển. Diện tích tự nhiên toàn huyện là 90.180 ha, với ba dạng địa hình chính là núi dốc, đồi thấp và thung lũng ven sông. Địa hình núi dốc chiếm khoảng 54%, địa hình bị chia cắt, khu vực phía đông nam của huyện còn khá hiểm trở, không thích hợp với phát triển nông nghiệp. Dạng địa hình đồi thấp chiếm khoảng 30,8% diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía tây và tây nam của huyện; độ cao phổ biến từ 850 – 900 m; hầu hết là đất bazan thích hợp với phát triển cây lâu năm. Dạng địa hình thung lũng chiếm 14,2% diện tích, phân bố ven các sông, suối lớn. Độ cao phổ biến so với mực nước biển từ 850 - 900 m, hầu hết là loại đất phù sa nhưng fmg ngập ứng khi mưa lớn, thích hợp cho lúa nước và các loại rau màu ngắn ngày. Sự đa dạng về địa hình đã hình thành cho Đức Trọng thế mạnh về trồng trọt, chăn nuôi; đặc biệt áp dụng công nghệ cao về cà phê, rau, hoa, dâu tằm, chăn nuôi bò, nhất là bò sữa. Toàn huyện hiện có 11.406 ha sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, tăng 452 ha so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, diện tích nhà kính hơn 317 ha, diện tích nhà lưới 165,2 ha và diện tích tưới tự động ngoài trời hơn 10.924 ha. Ngoài ra, bà con nông dân trong huyện còn quan tâm đầu tư sản xuất trên giá thể, sản xuất thủy canh, đầu tư công nghệ IoT vào quản lý sản xuất nông nghiệp[3].
Huyện Đức Trọng có 15 đơn vị hành chính, gồm: Thị trấn Liên Nghĩa và 14 xã: Hiệp An, Hiệp Thạnh, Liên Hiệp, Phú Hội, Tân Hội, Tân Thành, N’Thol Hạ, Bình Thạnh, Ninh Gia, Tà Hine, Ninh Loan, Đà Loan, Tà Năng, Đa Quyn. Trung tâm huyện cách Thành phố Đà Lạt 26 km về hướng nam, có đường cao tốc Dầu Giây – Liên Khương đi qua, Cảng Hàng không quốc tế Liên Khương, kết nối Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh, Buôn Ma Thuột, Phan Rang; nên Đức Trọng có điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu với bên ngoài, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hướng ngoại với cả 3 thế mạnh nông lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Theo số liệu điều tra dân số, nhà ở năm 2019, Đức Trọng hiện có dân số 186.974 người, 32 dân tộc cư trú. Dân tộc Kinh là 124.781 người, 31 DTTS có 62.193 người, chiếm 33,27% dân số toàn huyện. DTTS đông dân cư nhất trong huyện là dân tộc K'ho (26.099 người), Chu Ru (10.450 người), tiếp đến là dân tộc Nùng, Hoa, Tày, Thái,… Đến nay, có một nhóm K'ho vẫn còn duy trì lễ hội Pơthi (bỏ mả) và được tỉnh quan tâm bảo tồn, phát triển. Toàn huyện có 11/15 xã DTTS; 77 thôn DTTS. Trên địa bàn xã Đà Loan, nơi có nhiều người Chu Ru cư trú hiện còn một số ngôi đền của dân tộc Chàm, đang được những người Chu Ru chăm sóc, quản lý. Đức Trọng trở thành nơi hội tụ của nhiều nền văn hoá khác nhau tạo nên nét đặc trưng trong đa dạng, mang lại bản sắc riêng so với những vùng đất khác.
- Huyện Di Linh
Huyện Di Linh nằm trên cao nguyên Di Linh, phía nam của Lâm Đồng, ở độ cao 1.000 m so với mặt nước biển; giáp huyện Đức Trọng ở phía đông, giáp huyện Bảo Lâm ở phía tây, giáp huyện Lâm Hà và tỉnh Đắk Nông ở phía bắc, giáp tỉnh Bình Thuận ở phía nam. Diện tích tự nhiên toàn huyện 161.315,5 ha, hầu hết là đất bazan màu mỡ. Ở phía nam và tây nam huyện còn nhiều rừng tự nhiên. Những vùng đất bằng có khả năng phát triển nông nghiệp phân bố chủ yếu dọc theo trục đường quốc lộ 20 và tuyến đường liên xã, đường trục xã nên sản xuất nông nghiệp cũng có nhiều thuận lợi trong vận chuyển, giao thương hàng hóa, nông sản. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa biến thiên theo độ cao, Di Linh có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm khoảng 220C.
Về đơn vị hành chính, Di Linh hiện có một thị trần Di Linh và 18 xã là: Bảo Thuận, Đinh Lạc, Đinh Trang Hoà, Đinh Trang Thượng, Gia Bắc, Gia Hiệp, Gung Ré, Hoà Bắc, Hoà Nam, Hoà Ninh, Hoà Trung, Liên Đầm, Sơn Điền, Tam Bố, Tân Châu, Tân Nghĩa, Tân Thượng, Tân Lâm.
Di Linh nổi tiếng với các cây trồng chủ lực là chè, cà phê, dâu tằm. Những năm qua, huyện còn đẩy mạnh phát triển mạnh các loại cây trồng xen như: sầu riêng, bơ, mắc ca, hồ tiêu, bước đầu đem lại hiệu quả thu nhập vượt trội so với trồng thuần cà phê. Đời sống của người dân, trong đó có đồng bào DTTS được cải thiện, nâng cao. Tuy vậy, trong số các DTTS của huyện, đời sống của dân tộc K'ho vẫn còn nhiều khó khăn, tính đến hết năm 2024, toàn huyện vẫn còn 563 hộ nghèo DTTS, trong đó, dân tộc K'ho (Srê): 475 hộ, ứng với 84,37% hộ nghèo toàn huyện.
Tính đến ngày 01/4/2019, Di Linh có dân số là 159.994 người, với 36 dân tộc cư trú trên địa bàn: Dân tộc Kinh là 93.093 người, chiếm 58,18% dân số; 35 DTTS là 66.901 người chiếm 41,82% dân số. Theo quy định hiện hành, Di Linh có 19 xã DTTS, 81 thôn DTTS. Dân tộc cư trú trên địa bàn huyện có dân số đông là K'ho (chủ yếu nhóm Srê, Nộp): 56.577 người (chiếm ), Mạ, Chu Ru, Raglai, Hoa, Tày, … Trong các dân tộc gốc Tây Nguyên, dân tộc K'ho chiếm đa số với 56.573 người, chiếm 84,57% dân cư DTTS toàn huyện. Di Linh là nơi có cộng đồng người K'ho Srê đông nhất tỉnh Lâm Đồng. Đến nay, một số lễ hội liên quan đến nghi lễ nông nghiệp theo tín ngưỡng cổ truyền vẫn được bà con thực hiện, đặc biệt là Lễ Mừng lúa mới. Do có đông người K'ho cư trú lâu đời nên Sở VH-TT&DL đã phối hợp với huyện Di Linh xây dựng tại địa bàn xã Gung Ré Làng Văn hóa dân tộc K'ho với mục tiêu bảo tồn, gìn giữ, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc.
- Huyện Lâm Hà
Huyện Lâm Hà nằm ở phía tây bắc tỉnh Lâm Đồng, trên cao nguyên Di Linh và một phần cao nguyên Lang Biang; ở độ cao trung bình trên 900 m so với mực nước biển. Lâm Hà giáp thành phố Đà Lạt và huyện Lạc Dương ở phía bắc, giáp huyện Di Linh ở phía nam, phía đông giáp Đức Trọng, phía tây giáp huyện Đam Rông và tỉnh Đắk Nông. Huyện có diện tích tự nhiên là 60.000 ha,, địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều sông suối, với 3 dạng địa hình chính: dốc núi cao, đồi thấp và thung lũng. Lâm Hà có diện tich đất phù sa, đất đỏ bazan lớn phù hợp với việc trồng các loại cây như chè, cà phê, dâu tằm, cây ăn quả có giá trị cao. Khí hậu trên địa bàn mát mẻ, trung bình khoảng 21 – 22oC, thuận lợi cho chăn nuôi, trồng trọt, nghỉ dưỡng.
Hệ thống sông nước đa dạng tạo nên các ngọn thác đẹp như thác Voi ở Nam Ban (đã được xếp hạng thắng cảnh cấp Quốc gia), thác LiêngTrênha ở Tân Thanh, thác Cam Ly ở Mê Linh… có tiềm năng về du lịch. Lâm Hà có diện tích rừng tự nhiên là 930,27 ha, chiếm 57,34% diện tích tự nhiên của huyện, độ che phủ của rừng tương đối lớn… Điều kiện này tạo cho Lâm Hà lợi thế khi thực hiện các chương trình, dự án về lâm nghiệp.
Về đơn vị hành chính, Lâm Hà có 16 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 2 thị trấn: Đinh Văn (huyện lỵ), Nam Ban và 14 xã: Đạ Đờn, Đan Phượng, Đông Thanh, Gia Lâm, Hoài Đức, Liên Hà, Mê Linh, Nam Hà, Phi Tô, Phú Sơn, Phúc Thọ, Tân Hà, Tân Thanh, Tân Văn. Dân số toàn huyện là 144.436 người (2019), 29 DTTS có 34.811 người, chiếm 24,1% dân số toàn huyện. DTTS trên địa bàn huyện chủ yếu là dân tộc K'ho (20.085 người), Tày, Nùng, Thái, Dao, Mạ, Hoa,… Toàn huyện có 8 xã DTTS và 51 thôn DTTS. Theo số liệu công bố hộ nghèo, cận nghèo năm 2024 của tỉnh Lâm Đồng[4], số hộ nghèo DTTS của Lâm Hà là 381 hộ, trong đó dân tộc K'ho là 363 hộ (K'ho (Srê): 220 hộ, Chil: 143 hộ). Lâm Hà cũng là một trong các huyện của Lâm Đồng có nhiều DTTS ở phía Bắc di cư đến. Sự đa dạng của dân tộc đã tạo cho Lâm Hà nhiều sắc màu văn hóa. Nhóm K'ho ở Lâm Hà có Lễ hội cúng Thần Chiêng rất đặc sắc, hiện đã được Sở VH - TT&DL đầu tư, phục dụng, bảo tồn.
- Huyện Đam Rông
Đam Rông nằm ở phía bắc của tỉnh Lâm Đồng, trên cao nguyên Lang Biang, có diện tích 860,9 km2, chiếm 8,81% diện tích toàn tỉnh; giáp các huyện Lạc Dương, Lâm Hà, tỉnh Đắk Nông, Đắk Lắk. Ranh giới của huyện Đam Rông với 2 tỉnh này là con sông Đạ M'Rông (nhánh đầu nguồn của sông Krông Nô). Địa hình của huyện thấp từ phía nam và tây nam xuống phía bắc và đông bắc, gồm 3 dạng địa hình chủ yếu là núi cao, đồi thấp và thung lũng. Địa hình núi cao có diện tích khoảng 63.400 ha, chiếm 73,4 % diện tích toàn huyện, độ cao trung bình từ 1000 – 1300m; Địa hình đồi thấp khoảng 18.000 ha, chiếm 20,8% diện tích toàn huyện, độ cao trung bình từ 600 – 700m; Địa hình thung lũng có khoảng 5.000 ha, chiếm 5,8% diện tích toàn huyện.
Khí hậu ở Đam Rông phân hóa khá rõ thành 2 tiểu vùng. Tiểu vùng phía nam, khí hậu mát và ôn hòa quanh năm, nhiệt độ trung bình từ 20,5oC – 21,5oC, thích hợp với cây trồng xứ lạnh, cà phê, chè. Tiểu vùng phía bắc, nhiệt độ trung bình khoảng 22oC -23oC thích hợp với các loại cây trồng nhiệt đới. Hiện nay, cây trồng chủ lực được địa phương định hướng phát triển là cà phê, chuối Laba, sầu riêng và mắc ca với diện tích khoảng 120 ha. Ngoài ra, huyện còn hỗ trợ người dân chăn nuôi tằm, ngan Pháp ở xã Phi Liêng, Đạ Long.
Hiện tại, Đam Rông có 8 đơn vị hành chính cấp xã là: Đạ K'Nàng, Đạ Long, Đạ M'Rông, Đạ Rsal, Đạ Tông, Liêng S'Rônh, Phi Liêng, Rô Men (huyện lỵ); Dân số: 54.217 người (2019), có 29 DTTS với 35.387 người, chiếm 65,27% dân số toàn huyện. Các DTTS đông dân cư ở Đam Rông là: K'ho (14.740 người), Mnông (10.055 người), Mạ, Mông, Dao,…Đam Rông là huyện có cộng đồng dân tộc Mông đông nhất tỉnh Lâm Đồng với 4.386 người. Là huyện vùng sâu của tỉnh, giao thông đi lại khó khăn, đông đồng bào DTTS, nên Đam Rông là huyện có tỷ lệ hộ nghèo DTTS năm 2024 cao nhât tỉnh Lâm Đồng với 579 hộ, chiếm 92,79% hộ nghèo toàn huyện, tập trung đông ở nhóm dân tộc tại chỗ gốc Tây Nguyên như K'ho (Chil, Srê): 235 hộ, Mnông: 179 hộ, Mạ: 50 hộ và dân tộc Mông: 89 hộ.
- Huyện Đạ Huoai (mới)
Huyện Đạ Huoai nằm về phía tây nam tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Đà Lạt khoảng 155 km về phía đông bắc. Huyện Đạ Huoai hiện nay được sáp nhập từ ba huyện Đạ Huoai (cũ), Đạ Tẻh, Cát Tiên từ ngày 01/12/2024. Sau khi sáp nhập, diện tích tự nhiên của huyện là 1.448,48 km2; giáp với huyện Bảo Lâm, Bảo Lâm, thành phố Bảo Lộc, huyện Đức Linh và Tánh Linh (Bình Thuận), huyện Tân Phú (Đồng Nai). Hiện Đạ Huoai có 18 xã: An Nhơn, Bà Gia, Đạ Kho, Đạ Lây, Đạ Oai, Đạ Pal, Đồng Nai Thượng, Đức Phổ, Gia Viễn, Hà Lâm, Mađaguôi, Mỹ Đức, Nam Ninh, Phước Cát 2, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quốc Oai, Tiên Hoàng và 05 thị trấn: Đạ M’ri, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Mađaguôi, Phước Cát.
Về địa hình, Đạ Huoai là vùng tiếp giáp giữa Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, được bao bọc bởi sông Đồng Nai; có độ cao trung bình 300 – 400 m so với mực nước biển, thấp dần từ phía tây bắc xuống giáp sông Đồng Nai, bị chia cắt bởi đồi núi của cao nguyên Di Linh - Bảo Lộc phức tạp, có những nơi độ cao lên đến khoảng 800 m so với mực nước biển. Trên địa bàn huyện có một số con sông lớn chảy qua là sông Đạ Huoai, sông Đạ Mri, sông Đạ Tẻh, Đạ Nha
Về khí hậu, Đạ Huoai nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, phân ra hai mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô. Do ảnh hưởng của địa hình phức tạp, núi đồi xen kẽ đặc biệt là bị ngăn cách bởi đèo Chuối - Hà Lâm nên chế độ khí hậy của huyện chia làm 2 vùng. Vùng phía bắc có khí hậu cao nguyên gần giống kiểu khí hậu Bảo Lộc ôn hòa mát mẻ, lượng mưa lớn, phân bố tương đối đều.Vùng phía nam chịu ảnh hưởng khí hậu của miền Đông Nam Bộ có nhiệt độ cao, mùa mưa đến sớm và cũng kết thúc sớm. Đạ Huoai có 34.075 ha rừng, hầu hết các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đều có rừng nên có tiềm năng về kinh tế rừng. Thổ nhưỡng của Đạ Huoai cũng rất thích hợp cho phát triển cây công nghiệp (mía, điều), cây ăn quả (chôm chôm, sầu riêng, mít), lương thực (lúa). Huyện được mệnh danh là "thủ phủ sầu riêng" của Lâm Đồng, thương hiệu sầu riêng Đạ Huoai đã được cấp giấy chứng nhận.
Đạ Huoai trước đây là vùng đất hoang vu, chỉ có một số ít dân tộc gốc Tây Nguyên sinh sống, chủ yếu là người K'ho và Mạ. Đến nay, dân tộc đang cư trú trên địa bàn huyện là 36 dân tộc, với 112.996 người, trong đó, dân tộc Kinh là 26.999 người, chiếm 23,89% dân số toàn huyện. Các DTTS có đông dân cư ở Đạ Huoai là: Mạ (9.852 người), Tày, Nùng, K'ho, Thái, Mường, Dao, Mông, Khmer…
- Huyện Bảo Lâm
Bảo Lâm là một huyện thuộc cao nguyên Di Linh - Bảo Lộc, nằm giữa Thành phố Bảo Lộc và huyện Di Linh; Diện tích tự nhiên 146.344 ha, là một trong những huyện có diện tích lớn của tỉnh (chiếm 19%). Huyện Bảo Lâm là vành đai bao quanh ba mặt bắc, đông và tây của thành phố Bảo Lộc; giáp với tỉnh Đắk Nông ở phía Bắc, Bình Thuận ở phía nam, phía đông giáp huyện Di Linh, phía tây giáp Bảo Lộc và Đạ Huoai. Nhìn chung, Bảo Lâm có vị trí thuận lợi trong giao thương, kết nối với TP. Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ.
Địa hình của huyện Bảo Lâm thuộc vùng sơn nguyên tương đối bằng phẳng. Độ cao trung bình 900m so với mặt biển. Dù Bảo Lâm không có nhiều núi cao (Tiou Hoan 1.444m, B’Nôm Quanh 1.131m, B’Nôm R’La 1.271m), nhưng đây lại là vùng phát sinh của nhiều dòng suối lớn và là đầu nguồn sông La Ngà. Lượng mưa trung bình hàng năm rất lớn, bình quân 2.000 - 2.500mm nên tạo chho Bảo Lâm có tiềm năng dồi dào về thuỷ lợi và thuỷ điện. Mùa khô ở Bảo Lâm độ ẩm không khí vẫn rất cao, vì thế các loại cây trồng, đặc biệt là cây công nghiệp dài ngày, phát triển thuận lợi, đạt năng suất cao.
Huyện Bảo Lâm có 14 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Lộc Thắng và 13 xã: Lộc Quảng, Lộc Tân, Lộc Bắc, Lộc Bảo, Lộc Lâm, Lộc Phú, Lộc Ngãi, Lộc Đức, Lộc An, Lộc Thành, Lộc Nam, Tân Lạc và B'Lá. Dân số toàn huyện tính đến 01/4/2019 là 118.090 người, trong đó, dân tộc Kinh có 79.924 người, chiếm 67,68% dân số; 29 DTTS có 38.166 người, chiếm 32,32% dân số. Các DTTS có đông dân cư ở Bảo Lâm là: Dân tộc Mạ với 18.850 người, K'ho: 10.961 người; ngoài ra còn có dân tộc Tày, Nùng, Mường, Mông, Hoa,…Nhìn chung, đời sống của đồng bào DTTS của huyện đã được nâng cao. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2024, hộ nghèo DTTS của Bảo Lâm vẫn còn 410 hộ, trong đó, chủ yếu ở dân tộc K'ho, Mạ. Là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc Mạ, trên địa bàn xã Lộc Bắc, Sở VH-TT&DL đã phối hợp với huyện bảo tồn ngôi nhà dài truyền thống của dân tộc Mạ.
Bảo Lâm là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn của tỉnh, cây trồng chính là chè, cà phê, dâu tằm và một số loại cây ăn quả khác. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 52.577 ha trong đó diện tích cà phê là 33.930 ha, cây chè 7.200 ha và các loại cây ăn quả, cây trồng khác 11.446 ha. Tính đến nay, huyện Bảo Lâm đã quy hoạch được 3 vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với tổng diện tích 977 ha. Trong đó: Vùng sản xuất chè ở xã Lộc Tân 377 ha đã được tỉnh phê duyệt; vùng sản xuất cà phê tại xã Lộc Đức 300 ha và vùng sản xuất cây chè thị trấn Lộc Thắng và xã Lộc Quảng 300 ha đang hoàn tất hồ sơ trình thẩm định, phê duyệt. Về tái cơ cấu và sản xuất nông nghiệp và ứng dụng nông nghiệp công nghệ trên toàn huyện đã phát triển được hơn 4.400 ha cà phê, 1.620 ha chè, 993ha cây ăn quả, 310 ha rau, hoa, 650 ha dâu tằm[5]
- Thành phố Bảo Lộc
Thành phố Bảo Lộc nằm ở phía tây nam tỉnh Lâm Đồng, giáp với huyện Đạ Huoai và huyện Bảo Lâm; cách TP. Hồ Chí Minh khoảng 193 km về hướng tây nam, cách Thành phố Đà Lạt khoảng 110 km về hướng bắc theo quốc lộ 20; cách Phan Thiết và Dầu Giây mỗi nơi khoảng 121 km theo quốc lộ 55 và quốc lộ 20. Bảo Lộc có diện tích tự nhiên là 23.256 ha, chiếm 2,38% diện tích của tỉnh. Trước đây, Thành phố Bảo Lộc có tên gọi cũ là B’Lao, được đổi tên vào năm 1958 và là tỉnh lỵ của Lâm Đồng.
Bảo Lộc có độ cao trung bình khoảng 900 m so với mực nước biển và nằm trên cao nguyên Di Linh; có 3 dạng chính là núi cao, đồi dốc và thung lũng. Địa hình núi cao, độ dốc lớn tập trung ở phía tây nam, có các ngọn núi cao từ 800 - 1000m so với mực nước biển, có diện tích khoảng 2500 ha, chiếm 11% tổng diện tích thành phố. Dạng địa hình đồi dốc gồm các khối bazan bị chia cắt, tạo nên các ngọn đồi và các dãy đồi dốc có phần đỉnh đồi tương đối bằng phẳng, có độ cao khoảng 800 - 850 m. Ở dạng địa hình này, độ dốc sườn đồi lớn, dễ bị xói mòn, là khu vực sản xuất các loại cây lâu năm như chè, cà phê, dâu,… Thung lũng chủ yếu ở xã Lộc Châu và Đại Lào, chiếm 9,2% tổng diện tích của thành phố; cũng có khu vực đất tương đối bằng phẳng và rất thích hợp cho việc phát triển các loại cây cà phê, chè và cây công nghiệp ngắn ngày.
Khí hậu Bảo Lộc là nhiệt đới nhưng ở độ cao trên 800m, khí hậu ở Bảo Lộc mang nhiều nét tương đồng với Thành phố Đà Lạt, nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 21 - 22 độ C; nhiệt độ cao nhất là 27,4 độ C, nhiệt độ thấp nhất trong năm là 16,6 độ C. Độ ẩm trung bình 80 - 90%. Có nhiều ngày trời sương mù, cường độ mưa lớn tạo nên nét đặc trưng riêng của Bảo Lộc. Với khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, Bảo Lộc được biết đến là nơi sản xuất trà, cà phê, dâu tằm và các loại trái cây ăn như bơ, sầu riêng, mít tố nữ,…nổi tiếng của Lâm Đồng. Ngoài ra, chăn nuôi bò sữa và dê cũng là tiềm năng của thành phố. Ngành công nghiệp của Bảo Lộc chiếm tỷ trọng hơn 40% của ngành công nghiệp cả tỉnh Lâm Đồng, gồm chế biến trà, cà phê, dệt, khai thác và chế biến khoáng sản (bô xít, cao lanh,…).
Về đơn vị hành chính, thành phố Bảo Lộc hiện có 11 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 6 phường: Phường 1, Phường 2, Phường B’Lao, Lộc Phát, Lộc Sơn, Lộc Tiến và 5 xã: Đại Lào, Đam Bri, Lộc Châu, Lộc Nga, Lộc Thanh. Dân số toàn thành phố (2019) là: 158.684 người, dân tộc Kinh chiếm đa số; DTTS chí có 4.865 người. Các DTTS cư trú đông ở Bảo Lộc gồm: K'ho (1.509 người), Mạ (1.457 người), Hoa, Tày, Mường, Nùng, Khmer,…Bảo Lộc cũng là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc Mạ. Trên địa bàn thành phố hiện nay có nhiều địa danh được đặt theo tiếng Mạ như: Đam Bri, B'Lao,..
[1] . Các thông tin ở phần này theo Địa chí Đà Lạt.
[2] . Nguồn: https://khuyennong.lamdong.gov.vn
[3] . Nguồn: https://khuyennong.lamdong.gov.vn
[4] . Quyết định số /QĐ-UBND ngày
[5] . Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Bảo Lâm.