Lâm Đồng là một địa phương có nhiều thành phần dân tộc. Tính đến 01/4/2019, toàn tỉnh có 47 dân tộc, gồm dân tộc Kinh và 46 DTTS. Mỗi dân tộc có nguồn gốc, lịch sử cư trú, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá khác nhau. Các DTTS tại chỗ cư trú rải rác khắp các địa bàn trong tỉnh, nhất là vùng sâu, vùng xa. Dân tộc K'ho tập trung nhiều ở Di Linh, Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đam Rông. Dân tộc Mạ cư trú trong vùng thượng lưu sông Đồng Nai thuộc các huyện Đạ Huoai, Bảo Lâm. Dân tộc Chu Ru tập trung ở huyện Đơn Dương, Đức Trọng. Dân tộc Mnông cư trú ở huyện Lâm Hà, Lạc Dương, Đam Rông là chính. Các DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc di cư vào năm 1954 tập trung chủ yếu ở Đức Trọng và số di dân tự do đến sau năm 1975 sống xen kẽ ở các địa bàn. Cư dân đến Lâm Đồng từ nhiều địa phương, nhiều vùng, nhiều thời kỳ khác nhau nhưng đã đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau. Mỗi địa phương, mỗi vùng đều có những nét văn hoá riêng nên khi đến sống xen cư, xen canh đã tạo nên một đời sống văn hoá phong phú, đa dạng, khác với văn hoá truyền thống vùng Đồng bằng sông Hồng, Miền Trung.
Với lịch sử hình thành, phát triển hơn 130 năm, dân số Lâm Đồng tăng rất nhanh. Năm 1936: 60.000 người, 1955: 128.194 người, 1975: 326.514 người, 1989: 639.226 người, 1999: 1.100.000 người, 2019: 1.296.906 người. Quá trình tăng dân số nhanh của Lâm Đồng, có lý do từ những đợt di dân theo kế hoạch, di dân tự do từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, trong đó có các DTTS từ miền núi phía Bắc.
Đợt di chuyển đầu tiên của người Kinh bắt đầu khi Toàn quyền Pháp quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng và xây dựng Đà Lạt thành nơi nghỉ dưỡng. Người Kinh được đưa đến Lâm Đồng để phục vụ việc mở đường giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai hoang lập đồn điền chè, cà phê, trồng rau.
Đợt di dân lớn thứ hai diễn ra trong giai đoạn 1954 - 1975. Đó là những đồng bào theo đạo Công giáo và gia đình quân nhân bị dụ dỗ, cưỡng ép di dân vào Nam sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết. Những năm sau đó, do sự khủng bố, đàn áp của chính quyền Sài Gòn nên hàng chục ngàn đồng bào các tỉnh ven biển miền Trung đến tỉnh Lâm Đồng làm ăn sinh sống.
Đợt di dân lớn thứ ba diễn ra từ năm 1975 đến nay với tốc độ khá nhanh. Động lực chính của cuộc di dân này là chiến lược điều chỉnh lao động, dân cư, phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sự gia tăng dân số chủ yếu bằng 2 nguồn: di dân theo kế hoạch và di dân tự do.
Theo số liệu điều tra năm 2015[1]: Dân số Lâm Đồng là 1.246.193 người, có 43 dân tộc. Dân tộc Kinh có 945.805 người (chiếm 75,9%) và 42 DTTS có 300.369 người, chiếm 24,1%. trong các DTTS, dân tộc gốc Tây Nguyên (K'ho, Mạ, Chu Ru, Mnông,…) có 207.718 người, chiếm 16,67% dân số toàn tỉnh, và chiếm 69,2% dân cư là người DTTS cả tỉnh; các dân tộc di cư từ nơi khác đến (Tày, Thái, Nùng, Mường, Hoa,…) có 92.651 người, chiếm 30,8%. Năm 2019[2], toàn tỉnh Lâm Đồng có 47 dân tộc: Dân tộc Kinh: 963.290 người, chiếm 74,3%; 46 DTTS: 333.524 người, chiếm 25,7% (dân tộc gốc Tây Nguyên: 249.463 người, chiếm 19,24% dân số toàn tỉnh và 74,8% dân cư là người DTTS). So với năm 2015, số lượng dân tộc tăng thêm 04 dân tộc (giảm 3 dân tộc Ơ Đu, Cống, Lự; đồng thời, thêm 7 dân tộc: Rơ Măm, Brâu, Si La, La Ha, Xinh Mun, Hà Nhì). Đáng chú ý, số dân cư ở một số dân tộc không tăng mà giảm. Cụ thể, dân tộc Hoa giảm từ 15.666 người (2015) xuống còn 13.788 người (2019); dân tộc Sán Dìu giảm từ 695 người (2015) còn 613 người (2019), dân tộc Giáy giảm từ 125 người (2015) còn 94 người (2019); dân tộc Tày giảm từ 21.303 người (2015) xuống còn 20.248 người. Bên cạnh đó, cũng có dân tộc có sự chênh lệch lớn giai đoạn 2015 – 2019, như: Dân tộc Mông tăng từ 3.037 người (2015) lên 5.248 người (2019), tăng thêm 2.211 người, tương ứng với tỷ lệ tăng là 72,8% so với 2015; dân tộc Mường tăng từ 4.664 người (2015) lên 6.072 người (2019) tăng thêm 1.408 người, tương ứng tỷ lệ tăng là 30,2%;…
Bảng 1: Thống kê dân số DTTS tỉnh Lâm Đồng (Năm 2019)[3]
Tổng 2019:
- Dân số toàn tỉnh: 1.296.906 người
- Dân tộc Kinh: 963.290 người (74,28%)
- DTTS: 333.524 người (25,72%)
Trong đó: Dân tộc tại chỗ Tây Nguyên (TN): 249.463 người (19,24%), DTTS khác: 84.061 người (6,48%)
Quan sát số liệu thống kê trên trong giai đoạn 2015 – 2019 cho thấy đã có dân tộc xuất cư khỏi địa phương, cũng có dân tộc mới nhập cư. Hiện tượng này hầu hết diễn ra ở nhóm các DTTS rất ít người. Bên cạnh đó, sự tăng dân số cơ học bất thường của dân tộc Mông cho thấy tình trạng di cư tự do của dân tộc này vẫn đang diễn ra tại Lâm Đồng những năm qua; hay sự giảm gần 2.000 người Hoa, xấp xỉ 12% cũng cần được quan tâm để có những giải pháp kịp thời. Có thể nói, về cơ cấu dân cư trong cộng đồng các DTTS của tỉnh Lâm Đồng những năm qua tương đối ổn định, di cư tự do từ nơi khác đến Lâm Đồng đã không còn ồ ạt, chỉ diễn ra ở một số trường hợp cá biệt.
[1] . Tổng cục Thống kê, Ủy ban Dân tộc (2015), Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS.
[2]. Tổng cục Thống kê, Ủy ban Dân tộc (2019), Số liệu điều tra 53 DTTS năm 2019.
[3] . Nguồn: Ban Dân tộc Lâm Đồng, 2021
[4] . Để phục vụ cho nghiên cứu, chúng tôi chỉ tính tỷ lệ % của 16 DTTS cư trú tập trung thành cộng đồng hiện nay ở Lâm Đồng.