Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Lâm Đồng tính đến 2019, phân theo các ngành kinh tế là 198.428 người (Nam: 105.131 người, Nữ: 93.297 người). Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, dân tộc Kinh chiếm 63,9%; các DTTS chiếm 36,1%. Cơ cấu việc làm theo ngành nghề, xét theo từng lĩnh vực như sau:

- Chuyên môn kỹ thuật bậc cao: Chung toàn tỉnh Lâm Đồng là 1,0%, trong đó (nam – nữ): Kinh: 2,6% (0,8% - 1,2%), Tày: 2,2% (1,5% - 3,1%), Thái: 1,9% (1,2% - 3,0%), Hoa: 0,4% (0,5% - 0,2%), Mường: 1,0% (1,0% - 0,6%), Nùng: 1,2% (0,7% - 1,9%), Mông: 0,1% (0,1% - 0), Dao: 1,1% (0 – 2,4%), K'ho: 0,8% (0,8% - 0,8%), Mnông: 1,0% (1,0% - 1,0%), Raglai: 0,3% (0,5% - 0%), Mạ: 0,5% (0,4% - 0,8%), Chu Ru: 0,7% (0,9% - 0,7%);… Sau dân tộc Kinh, dân tộc Tày và dân tộc Thái có tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc cao nhiều. Các dân tộc tại chỗ Chu Ru, K'ho có tỷ lệ ở mức trung bình; tỷ lệ lao động có trình độ kỹ thuật cao rất thấp là dân tộc Mông, dân tộc Mạ và các dân tộc gốc Tây Nguyên khác như Raglai, Ê Đê, Ba Na,… Đáng chú ý, ở các dân tộc có tỷ lệ lao động có trình độ kỹ thuật cao như Kinh, Tày, Nùng, Thái có tỷ lệ là nữ cao hơn hẳn nam. Sự chênh lệch nam – nữ của lao động có trình độ cao ở nhóm dân tộc gốc Tây Nguyên không lớn, song có phần trội hơn ở nữ.

- Nghề nông, lâm, ngư nghiệp: Tỷ lệ chung toàn tỉnh là 24,9% (nam: 31,6%, nữ: 17,3%), chi tiết một số dân tộc có đông dân cư (nam – nữ): Kinh: 18,0% (22,7% – 11,7%), Tày: 30,3% (43,0% - 15,1%), Thái: 31,6% (37,3% - 23,2%), Hoa: 22,0% (30,7% - 8,0%), Mường: 14,7% (19,8% - 9,5%), Nùng: 30,1% (42,6% - 13,8%), Mông: 36,0% (64,7% - 5,3%), K'ho: 22,8% (27,6% - 17,6%), Mnông: 37,7% (48,8% - 26,9%), Raglai: 25,1% (25,1% - 21,3%), Mạ: 18,0% (26,0% - 9,1%), Chu Ru: 38,0% (39,1% - 36,8%),… Lao động trong nghề nông, lâm, ngư nghiệp ở các DTTS so với dân tộc Kinh là cao vượt mức trung bình chung. Trong tương quan giữa nam – nữ, hầu hết các dân tộc, kể cả dân tộc Kinh, nam giới đều cao hơn nữ giới. Cá biệt, tỷ lệ chênh lệch nam – nữ lên đến hàng chục phần trăm như dân tộc Mông, Tày, Nùng,… - các dân tộc thuộc miền núi phía Bắc, theo chế độ phụ hệ, đàn ông trong gia đình có vai trò trụ cột kinh tế. Ở các dân tộc gốc Tây Nguyên còn lại như Raglai, K'ho, Chu Ru, Mnông, Ê Đê, Gia Rai,…là các dân tộc theo chế độ mẫu hệ người phụ nữ có vai trò quán xuyến, điều tiết công việc trong trong gia đình.

- Nghề giản đơn: Tỷ lệ chung cả tỉnh là 65,6% (nam: 59,8%, nữ: 72,2%), chi tiết các dân tộc (nam – nữ): Kinh: 50,6% (49,0% - 52,6%), Tày: 48,2% (36,5% - 62,2%), Thái: 39,9% (37,6% - 43,2%), Hoa: 53,6% (48,6% - 61,7%), Mường: 71,5% (65,2% - 78,0%), Nùng: 53,5% (40,8% - 70,0%), Mông: 62,8% (33,8% - 93,9%), K'ho: 71,6% (67,8% - 75,6%), Mnông: 58,1% (46,4% - 69,4%), Mạ: 76,6% (70,8% - 83,1%), Chu Ru: 57,9% (56,5% - 59,4%),… Nghề giản đơn là nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ thuật, chỉ cần có sức khỏe và biết tính toán. Nên tỷ lệ lao động làm công việc giản đơn chung và ở Lâm Đồng nói riêng lên đến 65,6%. Ở các DTTS tỷ lệ làm công việc giản đơn cao hơn nhiều so với mức trung bình chung cả tỉnh thuộc các dân tộc K'ho, Mạ, Mường,…là các dân tộc có tỷ lệ người chưa bao giờ đi học, đang không còn đi học cao. Trong nhóm công việc giản đơn, lao động nữ chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam giới ở tất cả các dân tộc, đặc biệt có sự chênh lệch lớn ở các dân tộc theo chế độ phụ hệ từ miền núi phía Bắc di cư vào như Tày, Mông, Nùng, Mường; các dân tộc theo chế độ mẫu hệ gốc Tây Nguyên, có sự chênh lệch không lớn là K'ho, Chu Ru – điều này phù hợp với vai trò của phụ nữ trong các gia đình mẫu hệ hiện nay vừa phải quán xuyến công việc gia đình, bao gồm cả kinh tế; vừa phải lo công việc nội trợ, con cái. Yếu tố văn hóa đặc thù này cần được các nhà quản lý ở Lâm Đồng quan tâm trong đào tạo, nâng cao năng lực, giảm bớt gánh nặng gia đình cho phụ nữ các dân tộc theo chế độ mẫu hệ.

Từ năm 2009, Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020" đã được phê duyệt (kèm theo Quyết định số 1956/2009/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ). Mục tiêu của đề án là đến năm 2020, sẽ đào tạo nghề cho 6.000.000 lao động nông thôn (gồm 1.400.000 lao động học nghề nông nghiệp; 4.100.000 người học nghề phi nông nghiệp; trong đó, đặt hàng dạy nghề cho khoảng 380.000 người thuộc diện hộ nghèo, người DTTS. bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2022 – 2025 (Quyết định số 3685/QĐ-TTg ngày 29/9/2022) với mục tiêu tăng tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo lên trên 55%, thu nhập dân cư tăng khoảng 20%; trong đó, đào tạo cho 892.636 lao động nông thôn tham gia các vùng nguyên liệu, lao động trong vùng đồng bào DTTS và miền núi. riêng lâm đồng, được giao chỉ tiêu đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2022 – 2025 là 9.960 người. có thể nói, chủ trương, chính sách về dạy nghề cho lao động nông thôn đã có, tuy nhiên, đi vào thực tế cuộc sống đồng bào DTTS lại không dễ dàng. Danh mục dạy nghề còn chậm đổi mới, bổ sung, cập nhật nên chưa phù hợp với đồng bào DTTS.