Năm 2009[1], toàn tỉnh Lâm Đồng có 599.461 tín đồ thuộc 13 tôn giáo, trong đó: Phật giáo: 199.255 tín đồ, Công giáo: 303.761 tín đồ, Hòa Hảo: 103 tín đồ, Hồi giáo: 75 tín đồ, Cao Đài: 12.606 tín đồ, Minh Sư Đạo: 11 tín đồ, Tin Lành: 83.542 tín đồ, Tịnh độ cư sĩ: 01 tín đồ, Đạo Tứ ân hiếu nghĩa: 27 tín đồ, Ba Ha'i: 5 tín đồ, Bà La môn: 72 tín đồ. Có thể thấy, trong các tôn giáo trên, Công giáo có tín đồ đông nhất, sau đó đến Phật giáo, Tin Lành, Cao Đài. Các tôn giáo khác không đáng kể. Không có số liệu thống kê cụ thể số tín đồ tôn giáo ở mỗi dân tộc trên địa bàn tỉnh, gồm cả dân tộc Kinh.
Năm 2015[2], Lâm Đồng có 318.085 người DTTS, trong đó, đã có sự tăng nhanh số lượng tín đồ Công giáo và Tin Lành ở các dân tộc tại chỗ và dân tộc Mông. Cụ thể, dân tộc K'ho có 38,4% tín đồ Công giáo, 44,3% tín đồ đạo Tin Lành, đạo Phật chỉ chiếm 1,0%; dân tộc Mạ có 62,7% tín đồ Công giáo, 19,4% tín đồ đạo Tin Lành và 1,5% tín đồ đạo Phật; dân tộc Chu Ru, có 64% tín đồ Công giáo, 30,3% là tín đồ Tin Lành, đạo Phật có 0,1% tín đồ. Trong các dân tộc di cư từ nơi khác đến, dân tộc Mông có tín đồ đạo Tin Lành là 18,3%; tín đồ Công giáo chỉ có 1,4%. Các dân tộc khác di cư từ nơi khác đến như Tày, Nùng, Mường, Thái,… không có sự đột biến nào về tôn giáo, cơ bản vẫn theo tín ngưỡng truyền thống của dân tộc.
Năm 2019, trong tổng số 333.524 người DTTS của Lâm Đồng, có đến 234.050 người theo 16 tôn giáo (chiếm 71,7%); số người không theo tôn giáo nào chỉ còn 94.470 người, chiếm 28,3%. Cụ thể: Phật giáo 5.636 tín đồ, Công giáo: 127.318 tín đồ, Tin Lành 94.479 tín đồ, Cơ đốc Phục lâm Việt Nam có 6.097 tín đồ. Với Công giáo, các dân tộc có số lượng tín đồ đông là K'ho chiếm 59,4% tổng số tín đồ công giáo và chiếm 43,1% dân số; Chu Ru chiếm 11,18% tổng số tín đồ công giáo, chiếm 63,3% dân số; Mạ có 19,15% tổng số tín đồ Công giáo, chiếm 63,3% dân số. Với đạo Tin Lành: Dân tộc K'ho chiếm 76,64% tín đồ Tin Lành và 41,25% dân số; Mạ chiếm 8,3% tín đồ Tin Lành và 12,7% dân số; Chu Ru có 7,92% tín đồ Tin Lành và 19,44% dân số; Mông có 4,62% tổng tín đồ Tin Lành, nhưng chiếm đến 81,3% tổng dân số ở Lâm Đồng. Riêng đạo Cơ đốc Phục lâm, dân tộc K'ho chiếm đến 98,15% tổng số tín đồ của tôn giáo này.
Quan sát diễn biến phát triển tín đồ các tôn giáo ở tỉnh Lâm Đồng từ năm 2009 đến nay cho thấy tín đồ Công giáo và tín đồ Tin Lành phát triển mạnh mẽ trong vùng đồng bào DTTS, tập trung ở nhóm DTTS tại chỗ Mạ, Chu Ru, K'ho và dân tộc Mông. Điều này cho thấy trong nội bộ mỗi dân tộc, và cộng đồng các DTTS của tỉnh đã có sự biến đổi mạnh mẽ từ tín ngưỡng truyền thống sang các tôn giáo du nhập.
Từ những phân tích về thành phần dân tộc, phân bố dân cư, trình độ giáo dục, cơ cấu cán bộ người DTTS trong hệ thống chính trị cơ sở, cơ cấu ngành nghề, trình độ giáo dục, tôn giáo, nghèo đa chiều,…đã cho thấy được sự biến đổi về cơ cấu xã hội trong cộng đồng DTTS tỉnh Lâm Đồng từ năm 2009 đến nay. Tỉnh Lâm Đồng cần có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp hơn về cơ chế, chính sách liên quan thời gian tới:
- Các dân tộc gốc Tây Nguyên ở Lâm Đồng hầu hết theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ có vai trò quan trọng trong quản lý, tổ chức gia đình. Điều này cũng đồng nghĩa, người phụ nữ có nhiều trọng trách, công việc phải gánh vác, lo toan nhiều hơn nam giới. Ngược lại, với các dân tộc phía Bắc di cư đến lại theo chế độ phụ hệ nên có sự chệnh lệch lớn giữa nam và nữ trong cơ cấu ngành nghề và làm những công việc giản đơn. Do đó, khi thực hiện các chế độ chính sách về giáo dục, lao động, việc làm cần có sự quan tâm hơn đến yếu tố giới ở mỗi dân tộc để có những biện pháp giảm sự bất bình đẳng giữa nam và nữ theo văn hóa của mỗi dân tộc, nhóm dân tộc.
- Trong hệ thống chính trị nói chung, cấp xã nói riêng, ở Lâm Đồng tỷ lệ cán bộ người DTTS còn thấp, chưa đạt cơ cấu như quy định hiện hành. Có nhiều lý do dẫn đến sự việc chưa đạt tỷ lệ cơ cấu như trên. Cơ chế tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức hiện nay, dù đã được ưu tiên cộng điểm số hơn so với dân tộc Kinh, nhưng vẫn là rất khó khăn trong cạnh tranh giữa các thí sinh người DTTS và dân tộc Kinh. Bên cạnh đó, nhiều địa phương không có nguồn để tuyển dụng cán bộ là người DTTS. Không có nguồn tuyển dụng hay nguồn tuyển dụng chưa đạt yêu cầu đều phản ánh sự bất cập trong tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ người DTTS hiện nay ở địa phương, đặc biệt với nhóm dân tộc tại chỗ. bộ nội vụ cần phối hợp với ủy ban dân tộc, các địa phương vùng DTTS, cần xây dựng bảng danh mục vị trí việc làm dành riêng cho người DTTS trong hệ thống chính trị nhằm đảm bảo tỷ lệ cơ cấu cán bộ DTTS trong hệ thống chính trị và củng cố an ninh, quốc phòng ở vùng DTTS, trong đó có Lâm Đồng,
- Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn nhất quán lập trường tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng của nhân dân. Tuy nhiên, ở vùng DTTS tây nguyên nói chung, lâm đồng nói riêng, các tôn giáo du nhập phát triển rất nhanh, đặc biệt ở các dân tộc có đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn (DTTS tại chỗ, dân tộc Mông, Dao,…). Đây là một vấn đề cần được các cấp chính quyền ở địa phương cần quan tâm. Thực tế, ở vùng đồng bào DTTS Lâm Đồng hiện nay, các lễ hội truyền thống liên quan đến tín ngưỡng đa thần đều đã mai một; kéo theo nhiều hoạt động văn hóa khác cũng đang dần biến mất trong đời sống cộng đồng. Văn hóa là hồn cốt của mỗi dân tộc; khi văn hóa mai một, tương lai cộng đồng sẽ về đâu? Do vậy, chính quyền địa phương ở vùng DTTS cần tăng cường nắm bắt tâm tư của đồng bào; phối hợp với các chức sắc tôn giáo để tuyên truyền, vận động bảo tồn văn hóa dân tộc, hài hòa giữa dân tộc và tôn giáo.
- Về cơ cấu nghề nghiệp trong các DTTS, lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp rất cao. trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân; đất sản xuất bị thu hẹp do dân cư tăng lên; giá cả nông sản bấp bênh,… khiến cho việc giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới ở vùng DTTS của Lâm Đồng khó khăn hơn. Do đó, tăng cường đào tạo nghề, tăng tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ, xây dựng là một chủ trương đúng đắn của nhà nước hàng chục năm qua. Nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề các các DTTS Lâm Đồng vẫn rất thấp; kéo theo tỷ lệ lao động DTTS tập trung ở công việc giản đơn, nông lâm ngư nghiệp là tất yếu. Đã đến lúc cần thay đổi tư duy về dạy nghề, về nghề. Không nên chỉ là nghề may, cơ khí, chăn nuôi, dệt,… mà còn cần cả những "nghề" cần cho phát triển kinh tế như: maketing, sáng tạo sản phẩm, thiết kế bao bì, bán hàng trên không gian số,...
[1] . Tổng cục Thống kê, Số liệu điều tra dân số, nhà ở năm 2009
[2] . Tổng cục Thống kê, Ủy ban Dân tộc, Thu thập thông tin kinh tế - xã hội 53 DTTS 2015.