Người La Chí đã sinh sống ở miền núi phía bắc nước ta từ lâu đời.
Dân tộc Thổ
Tên tự gọi: Thổ.
Tên gọi khác: Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng.
Nhóm địa phương: Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Ðan Lai, Ly Hà, Tày Poọng.
Dân số: 1078 (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019).
Cư trú: Tập trung tại huyện Đức Trọng và rải rác 1 số huyện như Đức Trọng, Lâm Hà
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường (ngữ hệ Nam Á).
Ăn: Ăn gạo nếp gạo tẻ. Trong các ngày lễ, tết người Thổ thường làm các loại bánh chưng, bánh giầy, bánh gai.
Mặc: Ðàn ông mặc chiếc quần trắng cạp vấn, áo dài lương đen và đầu đội khăn nhiễu tím. Phụ nữ vùng Lâm La mặc váy vải sợi bông màu đen, có thêu hai đường chỉ màu từ cạp tới gấu váy; mặc áo 5 thân màu nâu hoặc trắng.
Ở: Nhà ở truyền thống là nhà sàn, được che xung quanh bằng liếp nứa hoặc gỗ.
Cưới xin: Hôn lễ của người Thổ phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới, nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn, vẫn còn có tục ở rể.
Sinh đẻ: Khi sinh được 3 ngày thì cúng bà mụ để đặt tên cho con và người mẹ phải kiêng cữ trong vòng một tháng, trong tháng đó người lạ không được vào nhà.
Ma chay: Quan tài là một cây gỗ nguyên, đục bụng, giống như cách làm thuyền, làm máng đập lúa. Khi đặt quan tài cho phía chân xuôi theo dòng nước chảy. Sau khi chôn cất, cúng người chết vào dịp 30 ngày, 50 ngày và 100 ngày.
Lịch: Người Thổ theo âm lịch.
Thờ cúng: thờ thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc đánh giặc và khai khẩn đất đai.
Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian Thổ khá đa dạng, các bài hát đồng dao vẫn được lưu truyền, ca dao, tục ngữ rất phong phú.
Chơi: Trò chơi gồm kéo co, múa sư tử, chơi cờ tướng. Trẻ em thích chơi đá cầu và đánh cù.