1. Nguồn gốc, tên gọi 

1.1 Nguồn gốc

Mnông là một trong 17 dân tộc tại chỗ, sinh sống lâu đời ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên, là một trong những chủ nhân văn hóa vùng. Đã có một số công trình nghiên cứu xếp nhóm Chil sinh sống ở khu vực Đam Rông là dân tộc Mnông như Nguyễn Trắc Dĩ, Henry, Mạc Đường; cũng có nghiên cứu cho rằng, Chil là một nhóm địa phương của người K'ho. Hiện nay, trong danh mục các dân tộc Việt Nam được Tổng cục Thống kê công bố năm 1979, Chil là một nhóm địa phương của dân tộc Mnông, cũng là một nhóm địa phương của dân tộc K'ho. Còn ở Lâm Đồng hiện nay. Chil được xếp vào dân tộc K'ho.

1.2 Tên gọi

- Tên thường gọi: Mnông

- Tên gọi khác là: Pnông, Mnông Nông, Mnông Pré, Mnông Bu đâng, ĐiPri, Biat, Mnông Gar, Mnông Rơ Lăm, Mnông Chil, Mnông Kuênh, …

2. Ngôn ngữ

Tiếng nói dân tộc Mnông thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer. Tuy nhiên, các nhóm Mnông không có cùng ngôn ngữ với nhau, dù cùng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn –Khmer. Trong vốn từ vựng Mnông ít nhiều chịu ảnh hưởng của tiếng Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo.

3. Dân số, địa bàn cư trú

Henry[1] đã ghi chép về người Mnong ở Đam Rông: "Họ ở phía Tây người Gar, trong vùng núi dày đặc của thượng lưu sông Kr. Knô và thượng lưu sông Kr. Boung, phía Bắc và Đông Bắc Cao nguyên Lang-Biang. Người Kadung gọi họ là Mnong Tieu có nghĩa là "Mnong vùng núi". Như vậy, địa bàn cư trú lâu đời của người Mnông ở Lâm Đồng là vúi núi, thượng lưu sông Krông Nô

Dân tộc Mnông cư trú tại 51/63 tỉnh, thành phố. Nhưng địa bàn cư trú truyền thống và lâu đời của người Mnông là khu vực Tây Nguyên. Theo số liệu điều tra dân số, nhà ở năm 2019, toàn quốc hiện có 127.344 người Mnông, trong đó: Đắk Lắk: 48.505 người, Đắk Nông: 50.718 người, Bình Phước: 10.879 người,…

Trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, dân tộc Mnông có 10.517 người (Nam: 5.102 người, Nữ: 5.415 người); hầu hết cư trú trên địa bàn huyện Đam Rông (10.055 người), Lâm Hà (215 người), các huyện, thành phố còn lại có rất ít người Mnông cư trú. Ở Đam Rông, dân tộc Mnông có mặt ở phần lớn các xã trong huyện, nhưng nơi tập trung đông nhất là: Xã Đạ Tông: 3.400 người, Đạ M'rông: 3.386 người, Đạ Rsal: 1.564 người, Rô Men: 1.498 người. Các xã còn lại có từ vài người đến vài chục người Mnông. Toàn tỉnh Lâm Đồng, dân tộc Mnông có 12 cộng đồng dân cư tập trung, còn lại là xen kẽ với các dân tộc khác. Dân tộc Mnông ở Đam Rông cư trú ở những xã thuộc thượng lưu sông Krông Nô, giáp với Đắk Lắk.

4. Tổ chức đời sống cộng đồng 

Dân tộc Mnông với dân số khoảng 48.505 người, cư trú đông tại các huyện Buôn Đôn (3.749 người), Krông Bông (6.557 người), Lắk (36.145 người); thuộc ngữ hệ Môn - Khmer; sống trong những ngôi làng mà họ gọi là bon. Mỗi bon có vài chục nóc nhà sàn dài hoặc nhà trệt. Bon có bến nước, nhà cộng đồng, đất canh tác, nghĩa địa, khu rừng đầu nguồn (gọi là khu rừng thiêng - nơi cư trú các vị thần). Các gia đình trong Bon có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau, theo dòng họ mẹ. Rừng và đất bao quanh theo truyền thống phục vụ cho trồng trọt, săn bắt, khai thác gỗ, có ranh giới tự nhiên như suối, ao hồ… Trong mỗi bon, còn có những đơn vị cư trú nhỏ hơn, ví dụ aluh (xóm). Người Mnông theo chế độ mẫu hệ, những gia đình lớn sống chung trong một ngôi nhà, đứng đầu là một người phụ nữ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Phụ nữ chủ động trong hôn nhân, con cái mang họ mẹ.

 

[1] .Henry, Rừng người Thượng, tr263.