- Nguồn gốc
Người Tày có mặt ở miền Bắc Việt Nam từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, và là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ. Ngày nay, một nhánh của người Tày là gốc người Kinh, Nùng, Hoa… vì một lý do nào đó đã di cư lên Đông Bắc Việt Nam và tự nhận mình là người Tày (người Thổ) và chính sách hưng biên của các triều đại phong kiến Đại Việt bằng hôn nhân, cử quan lại lên “chiêu an” [1] làm cho tộc người Tày phong phú về nguồn gốc và cũng cho thấy sức mạnh của văn hóa Tày (Thổ) đã hóa Kinh, Nùng, Hoa tạo thành sự giao thoa văn hóa và đoàn kết các tộc người nơi đây.
- Tên gọi
Tên tự gọi: Tày (có nghĩa là người). Có nơi, người Tày tự gọi mình là Thổ (có nghĩa là người đã ở đất này từ lâu).
Các nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.
Họ của tộc người: Người Tày có nhiều tên họ như Bế, Đàm, Đinh, Hà, Hoàng, La, Lộc, Lương, Lý, Ma, Nguyễn, Nông, Vi, Lục… Mỗi tên họ có thể gồm nhiều dòng họ khác nhau. Riêng tên họ Ma ở Định Hóa, Thái Nguyên có tới gần hai chục dòng họ, gồm Ma Bách, Ma Chương, Ma Công, Ma Doãn, Ma Duy, Ma Đình, Ma Khánh, Ma Khắc, Ma Phúc, Ma Quang, Ma Thế, Ma Tiến, Ma Tuấn, Ma Tử, Ma Văn, Ma Viết [2]. Mỗi dòng họ có những quy định riêng như cách thức bài trí bàn thờ và nghi lễ thờ cúng tổ tiên, tang ma, ghi chép gia phả... qua đó, dù xa nhau đến mấy đời người trong cùng một dòng họ cũng có thể nhận biết được nhau. Một số dòng họ lớn, đông thành viên có thể được chia ra thành các chi họ. Mỗi chi lại được chia nhỏ thành cành, thành nhánh [3].
- Ngôn ngữ
Thuộc ngữ hệ: Thái – Ka Đai, nhóm ngôn ngữ Tày-Thái
Chữ viết: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

- Dân số, địa bàn cư trú
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Tính đến 01/4/2019, người Tày trên toàn quốc là 1.845.492 người, là dân tộc có dân số đứng thứ hai tại Việt Nam, sau dân tộc Kinh, cư trú ở 63 tỉnh, TP. . Nhưng địa bàn cư trú lâu đời và chủ yếu của người Tày là khu vực Trung du và miền núi phía Bắc (1.565.659 người) như: Cao Bằng: 216.577 người, Hà Giang: 192.702 người, Bắc Kạn: 165.055 người, Tuyên Quang: 205.624 người, Lào Cai: 108.326 người, Lạng Sơn: 282.014 người, Thái Nguyên: 150.404 người, Yên Bái: 150.088 người,… Ở Tây Nguyên, người Tày di cư đến ở nhiều thời điểm khác nhau, nhưng đông nhất là vào những năm 80 – 90 của thế kỷ XX. Hiện nay, toàn khu vực Tây Nguyên có 113.087 người: Kon Tum: 3.552 người, Gia Lai: 11.412 người, Đắk Lắk: 53.124 người, Đắk Nông: 24.751 người, Lâm Đồng: 20.248 người (Nam: 10.402 người, Nữ: 9.846 người). Người Tày ở Lâm Đồng cư trú đông ở Đức Trọng, Bảo Lâm, Đạ Huoai; rải rác ở các địa bàn khác trong tỉnh, cụ thể là:
- Huyện Đức Trọng: Có 6.295 người Tày, chiếm 10,12% dân tộc thiểu số toàn huyện; cư trú ở các xã, thị trấn: Liên Nghĩa gần 4000 người; Tân Thành, Tân Hội, Phú Hội, Liên Hiệp,… có vài trăm đến dưới 1000 người.
- Huyện Đạ Huoai (mới): Toàn huyện có 6.504 người Tày, chiếm 66,96% người DTTS toàn huyện; cư trú chủ yếu ở thị trấn Đạ Tẻh, thị trấn Phước Cát, xã An Nhơn. Ngoài ra, có vài trăm người ở mỗi xã: Hương Lâm, thị trấn Cát Tiên, xã Phước Cát 2, Nam Ninh, Gia Viễn.
- Huyện Bảo Lâm: Có 2.217 người Tày, chiếm 5,81% dân tộc thiểu số của huyện; cư trú thành cộng đồng vài trăm người ở Thị trấn Lộc Thắng, xã Lộc Bảo, xã B'Lá, Lộc Ngãi, Lộc Thành, Lộc Nam; các xã khác có số cư dân người Tày không đáng kể, chỉ vài người đến vài chục người, xen kẽ với các dân tộc khác, nhưng chủ yếu với dân tộc Nùng.
- Huyện Lâm Hà: Có 3.112 người Tày, chiếm 8,94% người dân tộc thiểu số toàn của huyện; cư trú đông nhất ở xã Tân Thanh phần lớn. Các xã có vài trăm người Tày là: Phi Tô, Phúc Thọ, Tân Văn, Hoài Đức, Liên Hà,…
- Các huyện có vài trăm người Tày cư trú ở Lâm Đồng là: Đà Lạt, Bảo Lộc , Đam Rông (chủ yếu ở xã Liêng Srônh và Đạ Rsal), Đơn Dương (tập trung ở xã Ka Đô), Di Linh (ở 18/19 xã, thị trấn từ vài người đến vài chục người).
- Đặc điểm dân cư, đồng bào Tày thường sống quần tụ thành từng bản. Mỗi bản có từ hai mươi đến một trăm nóc nhà. Nhiều bản hợp lại thành một mường tương đương với một xã.
[1] Tỉnh uỷ Cao Bằng,Viện Sử học (1995), Nùng Trí Cao, Hội thảo khoa học, Nxb Hà Nội, HN. Trang 18-19
[2] La Công ý (2010), Đến với người tày văn hóa Tày, Nxb Khoa học xã hôi, HN trang 234
[3] La Công ý (2010), Đến với người tày văn hóa Tày, Nxb Khoa học xã hôi, HN trang 235