1. Nguồn gốc, tên gọi
1.1 Nguồn gốc
Theo kết quả nghiên cứu nhiều công trình về dân tộc học, khảo cổ học, sử học; người K'ho cũng như nhiều dân tộc gốc ở Tây Nguyên có quan hệ mật thiết với sự xuất hiện của con người tiền sử ở Việt Nam, thuộc đại chủng Ôxtralôit – một giống người thấp, da đen, tóc quăn mà hiện nay không còn. Những dấu vết của đại chủng này, hiện chỉ còn lại một số đặc điểm về nhân chủng học trên những con người hiện đại, vốn là sự pha trộn của hai chủng người Ôxtraliôd và Môngôlooid và hai ngành Anhđônêđiêng và Nam Á cách đây khoảng một vạn năm. Chủng người này phân bố ở hầu khắp khu vực miền Nam Việt Nam, ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
Đã có một số lần khảo cổ học trên địa bàn cư trú được cho là lâu đời của người K'ho. Một số những di vật được phát hiện tại đây (đồ gốm Chăm, gốm Đại Việt, gốm Trung Quốc,…) chỉ để khẳng định người K'ho đã có quan hệ lâu đời với dân cư ở những khu vực khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam, Trung Quốc; nhưng chưa đủ cơ sở để khẳng định về thời kỳ tiền sử của người K'ho như thế nào. Dù có một vài ý kiến cho rằng, người K'ho là đồng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh, bộ phận phía nam của văn hóa Đông Sơn, tồn tại cách đây khoảng 2.500 năm và là cư dân đã sinh sống lâu đời trên mảnh đất Tây Nguyên.
1.2 Tên gọi
- Tên tự gọi: K'ho. Nhưng ở các nhóm địa phương của dân tộc K'ho, chỉ nói mình là người K'ho, Srê, Chil, Lạch, Nộp,… mà không nói là người K'ho Chil, K'ho Lạch, K'ho Nộp,…
- Cách viết: K'ho, Ka Ho, Kơ Ho, Kơho, Cơ Ho, Cơ – Ho,…
Trong danh mục các dân tộc Việt Nam được Tổng cục Thống kê công bố năm 1979, dân tộc K'ho còn có tên gọi khác là: Srê, Nốp (Tu Nốp), Nộp, Cơ - don, Chil, Lat (Lach), Tơ - ring[1].
Có một thời kỳ, người K'ho chịu sự đô hộ của vương quốc Chiêm Thành (khoảng từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ XV[2]), nên theo nhiều nhà nghiên cứu, K'ho là tiếng Chăm cổ, có nghĩa là "người ở trên cao". Tên gọi này, do người Chăm gọi các nhóm dân tộc có cùng nhóm ngôn ngữ ở vùng núi Lâm Viên là vùng núi cao, trong tương quan với dân tộc Chăm ở đồng bằng = vùng thấp. Cũng có một truyền thuyết khác cho rằng K'ho[3] là tên chủ làng đầu tiên đã khai khẩn vùng đất của người Srê. Sau này, qua quá trình phát triển cộng đồng mà tên gọi này trở thành tên của dân tộc K'ho ngày nay.
Dân tộc K'ho gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau. Trong Danh mục thành phần dân tộc Việt Nam công bố năm 1979 xác định dân tộc K'ho còn có tên gọi khác là: Chil, Lạt, Nộp,… là chưa chính xác. Thực tế, các tên gọi khác này là tên gọi các nhóm địa phương của dân tộc K'ho, căn cứ vào đặc điểm nào đó của địa bàn cư trú, phương thức canh tác,…Cụ thể là:
- Nhóm Srê: Là nhóm địa phương có dân số đông nhất của dân tộc K'ho, làm ruộng nước (Srê có nghĩa là ruộng); Cư trú trước kia ở các thung lũng, gần nguồn nước ở Di Linh, Lâm Hà, Đức Trọng, Đơn Dương, Đam Rông,….
- Nhóm Chil: Trước đây cư trú ở các vùng núi cao thuộc thượng lưu sông Krông Knô (bắc và tây bắc cao nguyên Lang Biang). Nguyễn Trắc Dĩ[4] cho rằng, "Chil theo tiếng Kaho có nghĩa xấu, chỉ những người lạc hậu"; cư trú ở vùng phía Bắc Đà Lạt, được bao quanh bởi dãy núi Yan – Sin phía Bắc, Bidoup phía đông và rặng Lang – Biang phía Nam làm thành biên giới thiên nhiên ngăn cách nhóm Chil với nhóm M'nông Gar và Maa". Bùi Minh Đạo cũng cho rằng Chil có nghĩa là người cư trú ở trên núi cao, nơi có nhiều rừng rậm, chỉ biết làm nương rẫy, tuy nhiên không nói có sắc thái tốt hay xấu. Xem xét địa bàn cư trú, phương thức canh tác của người Chil có thể thấy cách giải thích trên tương đối thuyết phục. Hiện nay, nhóm Chil sống tập trung ở huyện Lạc Dương (xã Đạ Sar, Đạ Nhim, Đạ Chais, Đưng K'Nớ, Lát, thị trấn Lạc Dương), Đơn Dương (xã Quảng Lập, Đạ Ròn, Ka Đơn, thị trấn Dran, Tu Tra, Ka Đô), huyện Đức Trọng, Đam Rông,…
- Nhóm Lạch (Lát/Làc): Trong tiếng K'ho, Lạch có nghĩa là "rừng thưa" ý chỉ những người K'ho cư trú ở khu vực rừng thưa (rừng thông) ở vùng tây nam và nam cao nguyên Lang Biang, thuộc huyện Lạc Dương và xung quanh thành phố Đà Lạt. Đời sống kinh tế phát triển hơn so với các nhóm khác.
- Nhóm Nộp: Nhóm này sống xung quanh núi Nộp, phía nam Di Linh, ven Quốc lộ số 28 từ Di Linh đi Phan Thiết; tập trung chủ yếu ở 2 xã Sơn Điền và Gia Bắc. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận nhất là người Chăm, nên người K'ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú của mình.
- Nhóm K'ho Dòn (hay K'Don, Cơ Dòn) cư trú ở miền núi phía đông nam huyện Di Linh, vùng Gia Bắc, kề cận với địa bàn cư trú của người K'ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Về nhóm Chil, có nơi được giải thích là một nhóm địa phương của dân tộc Mnông. Một bộ phận lớn người Chil di cư xuống phía Nam, cư trú lẫn với người K'ho đã tự nhận là người K'ho. Còn bộ phận ở lại quê hương cũ, gắn với người Mnông, vẫn tự nhận là người Mnông[5].
Theo Cửu Long Giang và Toan Ánh trong "Cao nguyên miền Thượng (Quyển hạ, tr 135), K'ho, bao gồm: Người Mạ, Srê, Chil/Cill, Lat, Tring, Nộp, Tà Lài (Tà Lài là một nhánh của người Mạ ở Tà Lài, Đồng Nai ngày nay - người viết chú thích)
Cũng có ý kiến khác lại cho rằng người K'ho bao gồm: Người Mạ, người Srê, người Chil, người Lat, người Tring, người Nộp, Talai[6]. Không thấy nói đến nhóm Chil là người Mnông.
Thêm một tài liệu nữa khi viết về các DTTS miền Nam, trong mục sắc tộc Chil không có đề cập dân tộc này là một nhánh địa phương hay tên gọi khác của dân tộc Mnông. Chỉ nói đây là một sắc dân nhỏ cư ngụ ở phía Bắc Đà Lạt, được bao quanh bởi các rặng núi Yang – Sin, Bidoup, Lang Biang. Ở phía Tây, sắc tộc Chil ở lẫn lộn với các sắc tộc Mnông Gar[7].
Trình bày các nghiên cứu về dân tộc K'ho trong nhiều giai đoạn khác nhau cho thấy việc nhận định dân tộc Chil (hiện nay được xác định là một nhánh địa phương của dân tộc K'ho) là dân tộc Mnông ở trên cần được xem xét kỹ lưỡng hơn. Mặt khác, trong quá trình chúng tôi đi khảo sát, điền dã tại các vùng người Chil cư trú hiện tại, cho thấy nhóm Chil (cùng nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer với dân tộc Mnông) có ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán, nhà ở khác với các nhóm dân tộc Mnông hiện cư trú nhiều ở Đắk Lắk, một số ít cư trú ở huyện Đam Rông của Lâm Đồng.
Cũng có một cách tiếp cận khác về dân tộc K'ho. Theo Cửu Long Giang và Toan Ánh[8], dân tộc Kô - hô[9] (Koho) là danh từ chung để chỉ tất cả các dân tộc sinh sống ở vùng Tuyên Đức, Lâm Đồng, Tây Ninh Thuận, Bắc Bình Tuy, Bắc Long Khánh và Đông Quảng Đức. Theo nhóm tác giả, người K'ho gồm: Người Mạ, người Srê, người Chil, người Lạt, người Tring, người Nộp và người Talai. Đối chiếu với các nguồn tư liệu khác, chúng tôi nhận thấy, dường như tác giả đã nhầm lẫn khi cho rằng dân tộc Mạ là một nhóm của dân tộc K'ho. Chúng tôi sẽ đề cập đến chi tiết hơn về dân tộc Mạ trong phần sau.
Henri[10] căn cứ vào sự đậm, nhạt yếu tố Khmer trong ngôn ngữ của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer, lại xác định người Mạ chính gốc là hạt nhân của một đại bộ lạc có nhiều nhánh, họ sinh sống ở trung lưu sống Lagna (sông La Ngà). Người K'ho, sống ở đông bắc người Mạ. Người Lạt sống rải rác ở cao nguyên Lang Biang. Còn người Kil hay Chil được xác định là một nhóm của dân tộc Mnông, sống ở phía Tây người Gar (Mnông Gar), trong vùng núi dày đặc của thượng lưu sông Krông Nô và Kr. Boung ở phía Bắc và Đông Bắc cao nguyên Lang Biang. Người Kadung gọi họ là Mnông Tiêu có nghĩa là "Mnông vùng núi".
Như vậy, từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau của các học giả trong nước hay học giả người Pháp, từ các thời kỳ khác nhau, có điểm thống nhất ở tất cả các công trình này là: dân tộc K'ho ngày nay, có nhiều nhánh địa phương là: Chil, Nộp, Lạch/Lát, K'ho (Srê). Tuy nhiên, ý kiến cho rằng K'ho là tên gọi chung của nhiều dân tộc, trong đó có dân tộc Mạ; Hoặc có ý kiến cho rằng người Chil sống ở Đam Rông hiện nay, thực chất là một nhánh của dân tộc Mnông cũng cần dược nghiên cứu thêm.
[1] . Tổng cục Thống kê (1979), Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 02/3/1979 của Tổng cục Thống kê ban hành Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam.
[2] . Phan Văn Bé (1993), Tây Nguyên lược sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr23.
[3] . Nguyễn Văn Diệu, Phan Ngọc Chiến (1983), Người Kơho, trong sách Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng (Mạc Đường chủ biên), Sở Văn hóa tỉnh Lâm Đồng xuất bản.
[4] . Nguyễn Trắc Dĩ (), Đồng bào các sắc dân thiểu số Việt Nam, tr55.
[5] . Tổng cục Thống kê (2019), kết quả điều tra thu thập thông tin KT-XH của 53 DTTS năm 2019.
[6] . Cửu Long Giang, Toan Ánh (1974), Cao nguyên miền Thượng, quyển Thượng.
[7] . Nguyễn Trắc Dĩ (1972), Đồng bào các sắc dân thiểu số Việt Nam (nguồn gốc và phong tục), Bộ Phát triển và sắc tộc ấn hành, Nhà in Trường Sơn, 178/1 Chi Lăng, Phú Nhuận, Sài Gòn.
[8] . Cao nguyên miền Thượng, quyền hạ, trang 135, 136
[9] . Giữ nguyên cách viết Kô – hô mà không viêt K'ho do dẫn nguyên văn ý kiến của tác giả. Ở một số trường hợp khác, không viết K'ho mà viết khác cũng với lý do như này.
[10] . Henri, Rừng người Thượng, trang 387, 388, 389