Nguồn gốc, tên gọi

1.1 Nguồn gốc

Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu Ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm, về sau, họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu Ru. Đối chiếu một số đặc điểm về văn hóa giữa người Chu Ru và người Chăm cho thấy: Về ngôn ngữ, cả hai dân tộc đều thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo, có nhiều tương đồng về từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm. Về trang phục, trong khi nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên có màu nền trang phục màu tối, thì ở người Chu Ru là màu nền trắng. Cần nói thêm, người Chu Ru không biết dệt vải, nên vải may trang phục là trao đổi với dân tộc khác, nghề gốm mộc Chu Ru cũng khiến người ta nghĩ đến nghề gốm Chăm; Những dấu vết các nhà khảo cổ học khám phá được của người Chăm trên địa bàn cư trú lâu đời của người Chu Ru ở Lâm Đồng (vùng Đà Loan, huyện Đức Trọng và xã Quảng Lập, huyện Đơn Dương),… Theo một số già làng, tổ tiên người Chu Ru xưa kia là người Chăm sinh sống ở Nam Trung bộ. Vì các lý do chiến tranh, một bộ phận người Chăm đã bỏ chạy lên cao nguyên, và họ tự đặt cho mình tên "Chu Ru" (Cru: xâm đất). Tuy nhiên, khi hỏi những người Chu Ru hiện nay, họ đều nhận mình là người Chu Ru.

1.2 Tên gọi

Tên dân tộc: Chu Ru; Tên gọi khác: Chơ Ru, Kru, Thượng.

Nhóm địa phương: Chu Ru còn gọi là Cru, Cado, Kơ lu, Pnông Chăm, dân tộc này gần với người Chăm, giỏi làm ruộng, đồ gốm, thủy lợi.

Họ của tộc người: B'nahria, Crugiang, Dnơngsang, Đơ Lơng, Ya, K'Bao, Ma, M'Hơi. Ví dụ: Manuôi Ta In (nữ).

2. Ngôn ngữ

Dân tộc Chu Ru thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynêxia, (ngữ hệ Nam Ðảo), gần với tiếng Chăm. Có một bộ phận người Chu Ru sống gần với người K'ho nên nói tiếng K'ho (thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer).

Trước kia, người Chu Ru không có chữ viết, mọi sự truyền đạt, thông tin đều qua truyền khẩu. Dưới thời Pháp thuộc việc La tinh hóa tiếng dân tộc đã được thực hiện, như tiếng K'ho, Mạ. Nhưng không được phổ biến rộng rãi, chỉ ở tầng lớp quan lại địa phương.

Năm 2005, già làng Ya Loan (xã Tu Tra, huyện Đơn Dương) đã cùng một số già làng người Chu Ru khác như Ya Ga, Ya Dam Kai, Ya Gương, Ya Thi,… biên soạn từ điển và chương trình dạy tiếng Chu Ru trong nhà trường và chương trình dạy tiếng Chu Ru cho cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Lâm Đồng. Hiện nay, tiếng Chu Ru đang được giảng dạy ở một số trường phổ thông trên địa bàn huyện Đức Trọng, Đơn Dương.

3. Dân số, địa bàn cư trú

Dân tộc là một trong 3 dân tộc tại chỗ của Lâm Đồng. Theo số liệu điều tra năm 2019, toàn quốc có 23.242 người Chu Ru. Người Chu Ru cư trú chủ yếu trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, với: 22.473 người (Nam: 11.040 người, Nữ: 11.433 người), chiếm 96,69% người Chu Ru cả nước. Ở Lâm Đồng, dân tộc Chu Ru cư trú tại huyện Đơn Dương, Đức Trọng, với 28 cộng đồng, còn lại cư trú xen kẽ với các dân tộc khác. Cụ thể như sau:

- Huyện Đơn Dương: Người Chu Ru cư trú ở 9/9 xã, thị trấn của huyện, với tổng số là 11.710 người (Nam: 5.698 người, Nữ: 6.012 người), chiếm khoảng 33% DTTS toàn huyện; cư trú đông ở xã  Lạc Xuân (2.175 người), Ka Đô (814 người), Ka Đơn (1.264 người), Tu Tra (4.761 người), Quảng Lập (sáp nhập của xã Pró và xã Quảng Lập: 2.247 người), thị trấn Thạnh Mỹ (395 người). Các xã còn lại có vài người đến vài chục người.

- Huyện Đức Trọng: Toàn huyện có 10.450 người Chu Ru (Nam: 5.180 người, Nữ: 5.270 người), chiếm 16,8% dân cư DTTS của huyện. Người Chu Ru cư trú đông ở các xã: Tà Năng: 1.205 người, Đạ Quyn: 2.236 người, Tà Hine: 2.261 người, Đà Loan: 1.209 người, Phú Hội (1.283 người). Các xã, thị trấn còn lại, người Chu Ru chỉ có vài người đến vài chục người cư trú rải rác, xen kẽ với các dân tộc khác.

Ngoài 2 huyện trên, người Chu Ru cư trú ở tất cả các huyện, thành phố còn lại, tuy nhiên số lượng ít, từ vài chục đến vài trăm người, rải rác, không tập trung, như: Thành phố Đà Lạt: 137 người, Di Linh: 89 người, Bảo Lâm: 16 người, Lâm Hà: 29 người,…

Địa bàn cư trú của người Chu Ru gần với người Kinh, gần các khu vực kinh tế, xã hội tương đối phát triển ở Lâm Đồng nên so với dân tộc Mạ, K'ho đời sống kinh tế, xã hội của người Chu Ru hiện nay phát triển hơn; con em dân tộc Chu Ru nói tiếng phổ thông khá tốt nên thuận lợi trong học tập, giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế.

4. Tổ chức đời sống cộng đồng

Trong xã hội cổ truyền, đơn vị tổ chức xã hội của người Chu Ru là làng (plây, plei, ploi). Người Chu Ru làm ruộng nước, cư trú ổn định nên diện tích đất làng thường nhỏ hơn so với những làng làm rẫy của người K'ho, Mạ. Ranh giới giữa các làng là những vật tự nhiên có ở địa bàn cư trú: dòng sông, suối, núi, con đường,… Quan hệ giữa các thành viên trong làng là gồm 2 kiểu cơ bản: Làng có vài ba dòng họ cư trú, cùng dân tộc cư trú, các dòng họ này có quan hệ hôn nhân với nhau (có thể gọi là sui gia hay thông gia); và làng có quan hệ láng giềng, gồm nhiều dòng họ, có thể có cả những dân tộc khác như K'ho, Raglai,… Hiện nay, đến vùng người Chu Ru cư trú, vẫn thấy tình trạng người Chu Ru ở rất gần với người K'ho, thậm chí trước kia là cũng một làng, nay tách ra. Ví dụ, trên địa bàn xã Quảng Lập (xã Pró cũ) và xa Ka Đơn có những thôn người Chu Ru, Chil sống cạnh nhau như: Thôn Hamahai 1 (Chil), Thôn Pró Ngó, Pró Trong (Chu Ru),…

Đứng đầu mỗi làng là Chủ làng do các thành viên trong làng lựa chọn trong số những người đàn ông lớn tuổi nhất của làng, có kinh nghiệm sản xuất, được mọi người kính nể, hiểu biết phong tục, tập quán của làng. Chủ làng cũng phải lao động như mọi người, không có đặc quyền riêng. Trong mỗi làng Chu Ru, có một số người làm nghề thầy cúng (Yuh, Pơ độ, Gru) – họ là một tầng lớp riêng biệt trong xã hội cũng phải học từ những người cao niên khác mới có thể hành nghề. Họ là người chủ trì các nghi lễ trong cộng đồng, được cộng đồng trả công bằng những vật có giá trị sau mỗi buổi cúng tế như: Chuỗi cườm, nhẫn bạc, đùi trâu, heo, gà,… Người Chu Ru làm ruộng nước nên người có uy quyền thứ 3 trong cộng đồng, sau chủ làng, thầy cúng, là người coi quản nguồn nước (Gơnoar, pô ea) hoặc Trưởng thủy, do làng bầu chọn, độ tuổi từ 50 – 70, có kinh nghiệm trong dẫn nước về ruộng và ứng xử phải công bằng; sau mỗi mùa, ông sẽ được làng trả công một ít thóc lúa.