
1.1 Nguồn gốc
Năm 1984, một cuộc khảo cổ đã khám phá ra Thánh địa Cát Tiên, có diện tích rộng hàng trăm héc ta, trải dài khoảng 15 km, dọc theo hệ thống sông Đồng Nai đã cho phép các nhà khoa học nhận định: Chủ nhân của Thánh địa Cát Tiên chính là người Mạ. Một số nhà khoa học đã cho rằng[1]: "Thánh địa cát Tiên là do người bản địa tự làm cho mình. Mà người bản địa chính là người Mạ, chứ không phải là người Chân Lạp hay Phù Nam..."; hay "Di chỉ này là của người Mạ, họ là những người sống từ xa xưa tại vùng này",… Ranh giới của vương quốc Mạ được cho là vùng giáp ranh với sông La Ngà ở phía Nam, phía Bắc giáp vùng Đức Trọng (Lâm Đồng ngày nay), phía Đông giáp với đồng bằng Bình Thuận và phía Tây giáp với tỉnh Sông Bé (tỉnh Bình Dương, Bình Phước hiện nay). Tuy nhiên, những di chỉ được khai quật ở Thánh địa Cát Tiên chỉ có thể cho biết người Mạ đã từng ở đây và có thể là chủ nhân của nên văn hóa Sa Huỳnh, nhưng trước đó, người Mạ từ đâu đến vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ chưa có câu trả lời. Đó cũng là câu hỏi về nguồn gốc của các dân tộc gốc Tây Nguyên khác.
1.2 Tên gọi
Trong Danh mục các dân tộc Việt Nam được Tổng cục Thống kê công bố năm 1979, dân tộc Mạ là một trong 54 dân tộc Việt Nam, có địa bàn cư trú chủ yếu ở Lâm Đồng, Đồng Nai. Dân tộc Mạ còn có tên gọi khác là Châu Mạ, Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung,…Tuy nhiên, thực tế điền dã của chúng tôi tại vùng người Mạ ở Bảo Lâm, Bảo Lộc và theo một số nghiên cứu[2] thì các tên gọi " Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung " ở trên là tên gọi các nhóm địa phương cùa dân tộc Mạ:
- Mạ Ngăn được xem là người Mạ chính tông; cư trú ở lưu vực sông Đạ Dâng, nằm về phía Bắc vùng B'Lao, trên địa bàn các xã: Lộc Bắc, Lộc Lâm, Đạ Tẻh thuộc thành phố Bảo Lộc, huyện Bảo Lâm, Đạ Huoai của Lâm Đồng.
- Mạ Tô, cư trú ở vùng thượng lưu sông La Ngà, trên cao nguyên Bảo Lộc, gần với người K'ho. Mạ Tô là cách người Mạ ở vùng thấp gọi họ.
- Mạ Krung, là nhóm Mạ ở vùng bình sơn nguyên, cư trú từ tây nam Bảo Lộc đến vùng Định Quán (Đồng Nai)
- Mạ Xốp là người Mạ ở vùng đất phiến, thuộc địa phận xã Lộc Bắc (Bảo Lâm) và một phần Đạ Tẻh (huyện Đạ Huoai).
Ngoài ra, còn có thể bắt gặp cách gọi: Mạ Đạ Huoai, Mạ B'Lao, Mạ Đạ Đờng, Mạ Ddagui,…
Cho đến nay chưa có kiến giải chính xác về ý nghĩa của tên gọi Mạ. Cũng có giả thuyết cho rằng, "Mạ" là đọc chệch của âm "Mir" (rẫy) – một phương thức canh tác chủ đạo của người Mạ; cũng như "Srê" là chỉ phương thức canh tác trên ruộng nước ở nhóm K'ho Srê. Quan sát các yếu tố ngôn ngữ đi cùng âm tiết Mạ cho thấy cách gọi tên nhóm địa phương của dân tộc Mạ ở trên thường được xác định bởi đặc điểm địa hình nơi cư trú (thấp, cao) hoặc địa bàn cư trú (Đạ Huoai, B'Lao).
2. Ngôn ngữ
Tiếng Mạ thuộc thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngữ hệ Môn - Khmer, gần với ngôn ngữ dân tộc K'ho, Mnông, X'tiêng,... Dân tộc Mạ trước kia cũng không có chữ viết, chỉ có tiếng nói. Sau này, khi người Pháp đến Tây Nguyên, các giáo sĩ phương Tây mới dùng ký tự Latinh để ghi âm tiếng Mạ. Tuy vậy, so với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ ở bắc Tây Nguyên như Ba Na, Xơ Đăng; yếu tố Môn – Khmer trong tiếng Mạ nhiều hơn.
Tiếng Mạ có nhiều điểm giống tiếng K'ho về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Ví dụ về từ vựng, có nhiều từ giống nhau trong tiếng Mạ, Srê, Nộp, Lạch như: Vồ = đầu, mới = pa, nhiều = rà, đếm = kờp,…Do có nhiều điểm tương đồng về mặt ngôn ngữ, nên Nguyễn Trắc Dĩ đã cho rằng trong dân tộc Mạ gồm các nhóm: Mạ, Nộp, Ché Srê (người xứ ruộng), Ché Tê (người miền núi), Lạt, Kaho. Sau này, dân tộc Mạ mới bị chia thành nhiều khối[3]. Vào cuối thập niên 40 thế kỷ trước, để thuận tiện cho việc truyền giáo, Linh mục Jacques Dournes đã dùng ký tự Latinh để ghi âm tiếng K'ho Srê, đồng thời biên soạn cuốn Từ điển Ser Francais,xuất bản năm 1950 tại Paris. Sau đó, bộ ký tự này được Jean Boulbet - một nhà dân tộc học chuyên nghiên cứu về người Mạ dùng để ghi âm tiếng Mạ. Nên tiếng Mạ hiện nay có khoảng 90% số từ giống tiếng K'ho.
Người Mạ có nhiều nhóm địa phương, giữa các nhóm địa phương không có sự khác nhau về ngôn ngữ. Điều này, đã được Dam Bo ghi lại: "Người Mạ làm thành một nhóm quan trọng ở về phía tây - bắc con đường đi từ Sài Gòn lên Ðà Lạt (...) Ta có thể phân biệt những tiểu nhóm như người Mạ Ja ở Liang Biang; nhưng họ là một nhóm tộc người thống nhất do có cùng một phương ngữ chung, một cách thức giống nhau trong việc xây dựng các ngôi nhà sàn, những trang trí giống nhau".Trong quá trình nghiên cứu, dựa trên các kiến giải về địa bàn cư trú gần nhau trong lịch sử, Henry[4] cũng đã xếp ngôn ngữ Mạ cùng nhóm với ngôn ngữ K'ho, Lạch, Mnông do chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố Khmer hơn so với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer, nhưng yếu tố Khmer nhạt hơn là dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, Hrê,…
3. Dân số, địa bàn cư trú
Tính đến ngày 01/4/2019[5], cả nước hiện có 50.322 người dân tộc Mạ; cư trú phần lớn ở Tây Nguyên với 46.678 người, trong đó, ở Lâm Đồng: 38.523 người (Nam: 18.680 người, Nữ: 19.843 người), chiếm 92,76% người Mạ; Đắk Nông: 8.087 người. Ngoài ra, Đông Nam Bộ có 3.460 người (tập trung ở Đồng Nai) và rải tại các địa phương khác vài chục người mỗi tỉnh. Địa bàn cư trú lâu đời của người Mạ ở Lâm Đồng là một số huyện phía nam của tỉnh như: Bảo Lâm (18.850 người), Đạ Huoai (9.850 người) và ở một số huyện khác như: Đam Rông (3.233 người), Di Linh (2.718 người), Lâm Hà (1.912 người), Bảo Lộc (1.457 người). Các huyện còn lại, mỗi huyện chỉ có vài trăm đến vài chục người. Toàn tỉnh Lâm Đồng có 71 địa bàn cư trú thành cộng đồng của dân tộc Mạ, trong đó: Huyện Đạ Huoai: 28 cộng đồng, huyện Bảo Lâm: 30 cộng đồng, huyện Di Linh: 05 cộng đồng, huyện Đam Rông: 06 cộng đồng, thành phố Bảo Lộc: 02 cộng đồng, còn lại cư trú xen kẽ với các dân tộc khác:
- Thành phố Đà Lạt: Có 93 người Mạ (Nam: 22 người, Nữ: 71 người), chiếm 1,033% người DTTS của thành phố. Dân tộc Mạ cư trú đông nhất ở Phường 8: 27 người, Phường 10: 21 người, Phường 5: 16 người; các phường có từ 01 người đến dưới 10 người là: Phường 12, Phường 9, Phường 2, Phường 6, Phường 4,… Các phường không có người Mạ cư trú là Phường 7, Phường 1, xã Trạm Hành và Xuân Trường.
- Thành phố Bảo Lộc: Trên địa bàn Bảo Lộc có nhiều địa danh là tiếng địa phương của dân tộc Mạ như B'Lao, Đam Bri,… nhưng toàn thành phố chỉcó 1.457 người dân tộc Mạ (Nam: 714 người; Nữ: 743 người), chiếm 1,67% DTTS toàn thành phố; cư trú chủ yếu ở phường B'Lao (319 người) và xã Lộc Châu (1.076 người), còn lại rải rác ở các phường, xã khác từ vài người đến vài chục người ở mỗi địa bàn.
- Huyện Đam Rông: Toàn huyện có 3.233 người Mạ cư trú (Nam: 1.517 người, Nữ: 1.716 người), chiếm 9,14% DTTS của huyện. Người Mạ cư trú tập trung ở các xã Phi Liêng (1.753 người), Liêng Srônh: 1.091 người; các xã có vài chục người đến vài trăm người là Đạ Rsal (59 người), Rô Men (72 người), Đạ K'Nàng (247 người); các xã khác có vài người.
- Huyện Lâm Hà: Có 1.912 người Mạ, chiếm 5,5% DTTS của huyện; cư trú đông ở xã Đạ Đờn (1.621 người) và Phú Sơn (235 người). Các xã còn lại có trên dưới chục người; một số đơn vị cấp xã không có người Mạ cư trú là thị trấn Nam Ban, xã Mê Linh, Gia Lâm, Đông Thanh, Tân Hà, Liên Hà, Nam Hà.
- Huyện Di Linh: Có 2.718 người Mạ (Nam: 1.358 người, Nữ: 1.360 người), chiếm khoảng 4,0% DTTS của huyện, cu trú phần lớn ở xã Đinh Trang Thượng với 2.319 người; các xã còn lại có vài người đến vài chục người; các xã không có người Mạ cư trú là Tân Nghĩa, Hòa Ninh, Hòa Trung, Hòa Nam.
- Huyện Bảo Lâm: Là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc Mạ, nên ở đây có số người Mạ nhiều nhất của tỉnh Lâm Đồng: 18.850 người (Nam: 9.032 người, Nữ: 9.818 người). Ở Bảo Lâm, dân tộc Mạ cư trú đông ở thị trấn Lộc Thắng (4.469 người), xã Lộc Bảo (1.956 người), Lộc Lâm (1.784 người), Lộc Bắc (3.426 người), Lộc Phú (1.088 người), Lộc Ngãi (1.411 người), Lộc Tân (3.973 người), B'Lá (702 người). Xã Lộc Đức và Tân Lạc không có người Mạ; các xã còn lại có từ vài chục đến vài trăm người Mạ cư trú.
- Huyện Đạ Huoai (mới, sáp nhập từ 3 huyện: Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên): Có 9.850 người Mạ (Nam: 4.371 người; Nữ: 5.479 người). Người Mạ cư trú đông ở các xã: Phước Lộc (2.355 người), thị trấn Đạ Tẻh (1.297 người), xã Quốc Oai (1.011 người), xã Đồng Nai Thượng (1.494 nguời). Các xã, thị trấn có vài trăm người Mạ cư trú là: Phước Cát 2 (150 người), Tiên Hoàng (140 người), thị trấn Cát Tiên (211 người), Mỹ Đức (254 người), An Nhơn (303 người), Đạ Pal (413 người), thị trấn Đạ M'ri (108 người), thị trấn Ma Đa Guôi (401 người), xã Đạ M'ri (103 người), Đạ Oai (sáp nhập của xã Đạ Tồn và xã Đạ Oại: 648 người), Bà Gia (sáp nhập của xã Đoàn Kết và Đạ P'loa: 175 người), xã Ma Đa Guôi (483 người). Các xã, thị trấn còn lại của Đạ Huoai có vài người đến vài chục người hoặc không có người Mạ cư trú.
- Các huyện Đơn Dương, Lạc Dương, Đức Trọng chỉ có vài trăm người Mạ cư trú (Đức Trọng: 371 người, cư trú tập trung ở xã Liên Hiệp: 325 người) hoặc vài chục người (Lạc Dương: 12 người, Đơn Dương: 25 người)
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, địa bàn cư trú chủ yếu của người Mạ từ vùng giáp ranh khu vực cao nguyên Đà Lạt trên địa bàn các huyện Bảo Lâm, Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đức Trọng và Di Linh và một phần ở vùng đệm Vườn quốc gia Cát Tiên về phía tây nam, tỉnh Bình Phước và Đồng Nai. Người Mạ trước kia sống dựa vào nương rẫy, canh tác luân khoảnh nên cũng du canh dư cư. Trải qua quá trình dài của lịch sử, ảnh hưởng của chiến tranh, chính sách định canh, định cư của nhà nước, địa bàn cư trú của người Mạ đã có những thay đổi nhất định. Chẳng hạn[6], định cư của tỉnh, năm 1977, Lâm Đồng đã tiến hành di dời 22 làng của người Mạ cư trú rải rác trên núi cao, với hơn 300 hộ/1000 người về định cư dọc sông Đạ Tẻh lập nên xã Đạ Tẻh; Hơn 170 hộ/948 nhân khẩu cư trú trong khu vực kháng chiến cũ (B'Lá) về vùng trảng Singơ, thành lập các xã Lộc Bắc, Lộc Lâm, Lộc Tân (huyện Bảo Lâm).
4. Tổ chức đời sống cộng đồng
Trong truyền thống, đơn vị tổ chức xã hội của người Mạ là bon (làng). Cũng như các dân tộc khác ở Tây Nguyên, làng người Mạ là đơn vị xã hội kinh tế độc lập, khép kín, tự cung tự cấp. Các thành viên trong làng thường có quan hệ huyết thống với nhau theo dòng họ cha. Phan Xuân Biên căn cứ vào nhiều nguồn thông tin về người Mạ, K'ho đã từng nhận định: Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, loại hình làng một dòng họ tương đối phổ biến ở Tây Nguyên. Giữa hai làng cạnh nhau, sẽ được phân chia ranh giới bằng các vật chuẩn tự nhiên như: Dòng suôi, ngọn núi, con đường, tảng đá lớn, cây cổ thụ,… do đôi bên thoải thuận và kèm theo các nghi thức tôn giáo và thề nguyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nếu các dân tộc khác ở Tây Nguyên, đơn vị tổ chức xã hội cao nhất là làng, thì ở dân tộc Mạ đã từng có một "Vương quốc Mạ" – đơn vị xã hội cao hơn và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho đến nay chưa thể biết vì sao đến thế kỷ XVII "Vương quốc Mạ" biến mất một cách bí ẩn.
Theo Lưu Hùng, mỗi bon của người Mạ trước kia chỉ gồm vài nhà dài (gọi là nóc nhà); thậm chí, trước đây ở một số nơi còn có kiểu làng một nóc nhà. Mỗi khi có thêm thành viên do con cái lập gia đình, họ sẽ làm nối thêm vào. Nên mỗi căn nhà dài đến vài chục mét. Trong mỗi căn nhà là 2 – 3 cặp vợ chồng trở lên cùng con cháu của họ. Theo cách nói của người Việt, đó là kiểu gia đình "tam, tứ đại đồng đường". Mỗi cặp vợ chồng trong căn nhà đó, các con gái, con trai chưa lấy vợ, chồng cũng sẽ được dành cho một gian để làm chỗ ngủ, sinh hoạt, để tư trang,… Dam Bo[7] cũng từng nhận định "Vùng đất của tộc người Mạ rộng mênh mông, nhưng mật độ dân số thấp vì mỗi làng chỉ có đôi ba căn nhà".
Đứng đầu mỗi bon là chủ làng (Kuang bon) hay chủ rừng (Tom Bri) cùng với các trưởng tộc hợp thành thiết chế tự quản của bon làng. Mọi công việc như chọn đất, lập buôn, làm rẫy, cúng thần linh, hay giải quyết các tranh chấp của dân làng đều thông qua ý kiến của chủ làng. Trong xã hội Mạ cổ truyền, quyền sở hữu đất đai thuộc về cộng đồng, gồm đất canh tác, đất cho sinh hoạt lễ nghi tín ngưỡng, rừng cho săn bắn, hái lượm,…Mọi người đều có quyền canh tác và hưởng toàn bộ sản phẩm do mình làm ra. Tuy vậy, quyền sở hữu được giao cho chủ làng hay chủ rừng là người đại diện cho dân làng. Quyền của chủ làng haycchủ đất được dân làng giao phó gồm quản lý đất đai của làng, người làng khác đến khai thác, phát rẫy, săn bắn cần xin ý kiến chủ làng/chủ rừng.
Tham gia vào quá trình điều hành hoạt động của bon làng là Luật tục/tập quán pháp (N'đri). Luật tục có chức năng, tác dụng điều chỉnh hành vi, ý thức cúa con người trong cộng đồng với nhau và vơi tự nhiên. Theo đó, có thể xem Luật tục là một bộ công cụ chuẩn mực xã hội để mọi thành viên trong cộng đồng tuân thủ, thực hiện và noi theo. Chẳng hạn, phê phán những người lười biếng, Luật tục có câu: "Dài chân mà không biết đi rừng, dài tay mà không biết bắt ca". Nên Luật tục sẽ có răn đe, nhắc nhở: "Phát rừng rậm đừng kêu kẹt thần, phát rừng thưa đừng sợ cỏ tranh"; "Chăm chỉ làm việc thì không thấy mặt người",…Luật tục đã giúp cho thiêt chế tự quản bon làng cổ truyền Mạ, cũng như nhiều dân tộc Tây Nguyên khác, vận hành được bon làng từ đời này sang đời khác.
Hiện nay, các bon làng của dân tộc Mạ vận hành theo đơn vị hành chính của Nhà nước. Người đừng đầu mỗi thôn, buôn là cán bộ thôn, buôn (bí thư, trưởng thôn). Sự vận hành của bon làng theo luật pháp của nhà nươc. Thiết chế tự quản bon làng, vai trò của già làng trong mỗi bon không còn như trước. Tuy nhiên, luật tục vẫn phát huy được vai trò, giá trị trong gắn kết các thành viên cộng đồng, hướng các thành viên đến cách ứng xử chuẩn mực, đoàn kết, yêu thương nhau. Có những sự việc xảy ra ở bon làng, không phải khi nào cũng có thể dùng luật pháp để xử lý, mà vẫn cần đến vai trò của Luật tục, già làng, người có uy tín để xử lý, trước khi áp dụng luật pháp.
[1] . Dẫn theo Trung Nghĩa (2013), Những bí mật chưa tiết lộ về vương quốc Mạ, https://www.nguoiduatin.vn
[2] . Phan Ngọc Chiến, Phan Xuân Biên (1983), Dân tộc Mạ, trong sách "Vân đề dân tộc ở Lâm Đồng" (Mạc Đường chủ biên), tr 222; Bùi Sỹ Thứ (), Dân tộc, dân cư Lâm Đồng, Nxb Thống kê, tr22.
[3] . Nguyễn Trắc Dĩ (1974), Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam, tr53
[4] . Henry, Rừng người Thượng, tr 259
[5] . Tổng cục Thống kê, Số liệu điều tra dân số, nhà ở 2019.
[6] . Nhiều tác giả (2013), Văn hóa người Mạ, Nxb Văn hóa Thông tin., tr34.
[7] Dam Bo, Miền đất huyền ảo, tr 48.