Dân tộc Nùng gồm 2 bộ phận[1]: Bộ phận thứ nhất là hai dân tộc Tày, Nùng có chung cội nguồn, thuộc nhóm Âu Việt, cư trú ở Bắc Việt Nam và Hoa Nam (Trung Quốc); cư trú ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ được coi là cư dân bản địa. Bộ phận thứ hai là một nhóm Nùng có tộc danh xác định ở cấp độ nhóm địa phương, mới vào nước ta khoảng 300 - 400 năm nay.
Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...
Chữ viết: Chữ Nôm Nùng. Ngày nay, chữ Nôm Nùng hầu như không được sử dụng, chỉ có một số người già và người làm nghề thầy cúng còn biết.
Tính đến ngày 01/04/2019[2], dân tộc Nùng có 1.083.298 người. Địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc Nùng là ở Trung du và miền núi phía Bắc (848.821 người, chiếm 78,36% người Nùng cả nước), nhưng tập trung ở vùng Đông Bắc, ở các địa phương: Bắc Giang (95.806 người), Lạng Sơn (335.316 người), Cao Bằng (158.114 người), Tuyên Quang (16.902 người), Bắc Kạn (28.709 người), Hà Giang (81.478 người), Lào Cai (31.115 người), Yên Bái (16.385 người), Thái Nguyên (81.740 người), Băc Ninh (14.471 người).
Ở Tây Nguyên, người Nùng di cư từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào nhiều đợt khác nhau. Ồ ạt nhất là vào những năm 80 – 90 của thế kỷ XX. Tính đến năm 2019, toàn vùng Tây Nguyên, người Nùng có 146.593 người – có số dân đông nhất trong các DTTS di cư vào Tây Nguyên, trong đó: Đắk Lắk: 75.857 người, Đắk Nông: 31.063 người, Gia Lai: 12.420 người, Kon Tum: 2.830 người, Lâm Đồng: 24.423 người (Nam: 12.635 người, Nữ: 11.788 người).
[1] . Nhiều tác giả, Hôn nhân và gia đình các DTTS Việt Nam, tr379, 380
[2] . Tổng cục Thống kê, Số liệu điều tra dân số, nhà ở 2019.