Người La Chí đã sinh sống ở miền núi phía bắc nước ta từ lâu đời.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Dân số toàn quốc (2019): 15.126 người, cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi Tây Bắc: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La,…Đặc biệt, có khoảng hơn 300 người cư trú lâu đời ở huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
Dân tộc Lào – Đơn Dương
Tên thường gọi: Lào
Tên tự gọi: Thay, Thay Duổn, Thay Nguồn, Phu Thay, Phu Lào.
Các nhóm địa phương: Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai)
Dân số toàn quốc (2019): 15.126 người, cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi Tây Bắc: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La,…Đặc biệt, có khoảng hơn 300 người cư trú lâu đời ở huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
Ở Lâm Đồng, dân tộc Lào vài người, hiện ở huyện Đơn Dương.
Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông ngang tầm bắp chân. Tóc búi cài trâm bạc, khăn piêu đội đầu. trang phục nam áo sơ mi cổ tròn được cài bằng khuy vải, kết hợp với một chiếc quần đùi và được quấn thêm một chiếc khăn với màu sắc sặc sỡ bên ngoài.
Nhà ở truyền thống: Nhà sàn, lòng rộng, cột kèo được chạm khắc Mái nhà thường kéo dài tạo nên hiên để đặt khung cửi và các công cụ làm vải.
Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Không có tục hôn nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình theo chế độ phụ quyền nhưng vai trò người phụ nữ vẫn được tôn trọng. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng.
Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác đều thổ táng.
Văn nghệ: Nổi bật là các điệu múa dân vũ.