Tổ tiên của người Bố Y là một chi của người “Lạc Việt” trong khối Bách Việt phát triển thành. Người Bố Y tự gọi mình là Bố Y, Bố Trọng, Bố Man và Liêu, Trọng Gia, Lý Liêu, Di Liêu (có thể từ thời cổ đại). Tộc danh Bố Y ở Việt Nam hiện nay là chỉ hai nhóm: Nhóm Bố Y (tên tự gọi là Pu Y) ở tỉnh Hà Giang và nhóm Tu Dí ở tỉnh Lào Cai.

Dân tộc Bố Y – Bảo Lộc

Tên thường gọi: Bố Y

Tên gọi khác: Chủng Chá, Trọng Gia...

Nhóm địa phương: Bố Y và Tu Dí. Dân tộc Bố Y là 01 trong 16 dân tộc có số dân ít hơn 10.000 người, nên được xếp vào nhóm dân tộc thiểu số rất ít người nên được hưởng chính sách hỗ trợ tuyệt đối trong giáo dục, y tế, kinh tế, ….

Ngôn ngữ: Nhóm Bố Y nói ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), còn nhóm Tu Dí nói ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).

- Dân số toàn quốc: 3.232 người, cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.

Ở Lâm Đồng, dân tộc Bố Y chỉ có 01 người, hiện cư trú trên địa bàn TP. Bảo Lộc.

Trang phục: Phụ nữ mặc váy xoè nhuộm chàm. Áo ngắn 5 thân có ống tay rời, xiêm che ngực và bụng. Nam giới thường mặc áo cổ viền, loại áo cánh ngắn, tứ thân; quần lá nhuộm màu chàm bằng vải tự dệt.

Nhà ở: Nhà trệt tường đất có 2 mái lợp gianh hoặc ngói. Nhà có 3 gian, có sàn gác trên quá giang là chỗ để lương thực và là chỗ ngủ của những người con trai chưa vợ.

Ma chay: Trước khi đưa đám bắn 4 phát súng, lúc khiêng quan tài cho chân người chết đi trước. Từ nhà đến huyệt phải nghỉ 3 lần (nếu vợ hoặc chồng còn sống) hoặc 4 lần (nếu vợ hoặc chồng đã chết). Người nhà để tang 3 năm, trong thời gian có tang con trai không được uống rượu, con gái không được đeo đồ trang sức, con cái không được lấy vợ, lấy chồng.

Thờ cúng: Trên bàn thờ đặt 3 bát hương thờ trời, táo quân và tổ tiên. Dưới gầm bàn thờ đặt một bát hương thờ thổ địa. Nếu bố mẹ vợ chết không có người thờ cúng thì con rể lập bàn thờ nhỏ cạnh cửa để thờ.

Các bài viết liên quan

Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc có dân số ít ở Việt Nam. Người Cờ Lao ở Việt Nam vốn từ Trung Quốc di cư sang.

Người La Ha tự gọi mình là La Ha, Klá và Phlạo và được các tộc người khác gọi bằng các tên khác nhau như: Xá Khắc, Phlắc, Khlá Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ H

Người Ngái gốc ở Ngũ Động, huyện Phòng Thành, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc); sống tập trung ở Móng Cái, Quảng Hà, Tiên Yên (Quảng Ninh) và một số địa phương thuộc các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái, Cao Lạng

Người Si La di cư từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) sang Việt Nam cách đây khoảng 150 năm. Khi đến Việt Nam, người Si La chỉ có sáu hộ gia đình mang các họ Lý, Giàng, Pờ, Hù, Lỳ và Vàng.

Người Lô Lô ở Việt Nam có quan hệ mật thiết với người Di ở Trung Quốc.

Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là "quê hương" của người Mảng. Người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.

Tổ tiên của người Brâu cư trú ở vùng nam Lào và đông bắc Campuchia, đại bộ phận hiện nay vẫn cư trú bên lưu vực sông Sekamarn (Sê San), Nậm Khoong (Mê Kông), một bộ phận nhỏ người Brâu di cư sang V

Về nguồn gốc lịch sử của người Rơ Măm, nhìn chung chưa được các nhà khoa học xác định rõ, chỉ biết tộc người này đã có mặt ở Việt Nam từ lâu.