Người Si La di cư từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) sang Việt Nam cách đây khoảng 150 năm. Khi đến Việt Nam, người Si La chỉ có sáu hộ gia đình mang các họ Lý, Giàng, Pờ, Hù, Lỳ và Vàng. Nhìn chung, các hộ người Si La ở Việt Nam thường cư trú không ổn định, liên tục chuyển đi, chuyển lại nhiều lần.

Dân tộc Si La

Tên tự gọi: Cù Dề Sừ.


Tên gọi khác: Kha Pẻ.

Dân số: 4 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019).

Cư trú: Đức Trọng, Lạc Dương, Đam Rông

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, gần với Miến hơn.

Hoạt động sản xuất: Trước kia chuyên làm nương du canh, nay sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, ngô trên ruộng nương,há i lượm

Ăn: Dùng cả cơm nếp và cơm tẻ với các loại canh rau rừng. Ðạm thực vật chủ yếu là sản phẩm của săn bắt, đánh cá.

Mặc: Phụ nữ mặc váy, hở bụng, áo cài khuy bên nách phải; cổ và tay áo được trang trí bằng cách gắn lên những đường vải màu khác nhau. Váy màu đen hay chàm, khi mặc giắt ra phía sau. Khăn đội đầu phân biệt theo lứa tuổi và tình trạng hôn nhân. Phụ nữ thường đeo túi đan bằng dây gai.

: Ở nhà đất, hai gian và hai chái nhỏ, có hiên và một cửa ra vào. Bàn thờ ở góc trái trong cùng, trên có một chén rượu nhỏ và một quả bầu. Bếp chính ở giữa nhà,

Phương tiện vận chuyển: dùng gùi.

Cưới xin: Có tục cưới hai lần. Lần đầu đón cô dâu về nhà chồng. Lần thứ hai sau một năm, nhà trai trao tiền cưới cho nhà gái.

Sinh đẻ: Phụ nữ sinh con ở trong nhà, đẻ ngồi.

Ma chay: Nghĩa địa thường để dưới bản, mộ của những người cùng họ thường ở gần nhau. Kiêng đặt mộ xa giữa những người khác họ

Thờ cúng: Con cái thờ bố mẹ đã mất. Thờ tổ tiên từ đời ông trở lên do người trưởng họ đảm nhận

Học: Không có chữ viết riêng, kinh nghiệm trao truyền bằng lời hoặc thực hành.

Văn nghệ: Người Si La hát giao duyên giữa nam nữ thanh niên, hát sử ca.

Tết lễ: Ngày tết năm mới vào đầu tháng 12 âm lịch; ngoài ra còn ăn tết cơm mới.

Các bài viết liên quan

Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc có dân số ít ở Việt Nam. Người Cờ Lao ở Việt Nam vốn từ Trung Quốc di cư sang.

Người La Ha tự gọi mình là La Ha, Klá và Phlạo và được các tộc người khác gọi bằng các tên khác nhau như: Xá Khắc, Phlắc, Khlá Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ H

Người Ngái gốc ở Ngũ Động, huyện Phòng Thành, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc); sống tập trung ở Móng Cái, Quảng Hà, Tiên Yên (Quảng Ninh) và một số địa phương thuộc các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái, Cao Lạng

Người Lô Lô ở Việt Nam có quan hệ mật thiết với người Di ở Trung Quốc.

Tổ tiên của người Bố Y là một chi của người “Lạc Việt” trong khối Bách Việt phát triển thành.

Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là "quê hương" của người Mảng. Người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.

Tổ tiên của người Brâu cư trú ở vùng nam Lào và đông bắc Campuchia, đại bộ phận hiện nay vẫn cư trú bên lưu vực sông Sekamarn (Sê San), Nậm Khoong (Mê Kông), một bộ phận nhỏ người Brâu di cư sang V

Về nguồn gốc lịch sử của người Rơ Măm, nhìn chung chưa được các nhà khoa học xác định rõ, chỉ biết tộc người này đã có mặt ở Việt Nam từ lâu.