Người Hoa thiên di vào cả miền bắc và miền nam Việt Nam từ nhiều địa phương, bằng nhiều con đường, trong những thời gian khác nhau, kéo dài suốt từ thời kỳ bắc thuộc cho đến năm 1954. Việc hình thành vĩ tuyến 17 (năm 1954) chia cắt hai miền của Việt Nam với những thể chế chính trị khác nhau, lịch sử đã chứng kiến khoảng 40.000-45.000 người Hoa rời miền bắc Việt Nam di cư vào miền nam.
Dân tộc Hoa
Tên thường gọi: Hoa
Tên gọi khác: Khách, Hán, Tàu,…
Nhóm địa phương: Quảng Ðông, Quảng Tây, Hải Nam, Triều Châu, Phúc Kiến, Sang Phang, Xìa Phống, Thoòng Nhằn, Minh Hương, Hẹ...
Dân số toàn quốc (2019): 749.466 người; cư trú chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng,… và ở một số tỉnh miền núi phía bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Giang,…
Ở Lâm Đồng, dân tộc Hoa có 13.788 người (2019), cư trú đông nhất ở Đức Trọng (6.499 người) và rải rác ở TP Đà Lạt, Đơn Dương, Di Linh,…
Cư trú tập trung: Đức Trọng, Đơn Dương, Di Linh
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (Ngữ hệ Hán - Tạng).
Ẩm thực: Lương thực chính là gạo, mì xào, hủ tiếu... với gia vị, các loại trà sâm, hoa cúc...
Mặc: Áo cổ viền cao, cài khuy một bên, xẻ tà cao , áo "sườn xám" may dài, ôm ngang hông, xẻ tà dưới phần đùi
Nhà ở: Nhà cửa thường có 3 loại: nhà 3 gian hai chái, nhà chữ Môn và chữ Khẩu. Nhà thường xây bằng đá, gạch mộc hay trình đất, lợp ngói máng hay là quế, lá tre, phên lứa...
Lễ tết: Trong một năm có nhiều ngày lễ tết: Nguyên đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, Ðoan ngọ, Trung nguyên, Trung thu.
Thờ cúng: Thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ, thờ cúng các vị thần phù hộ (thần bếp, thổ địa, thần tài...) và một số vị thánh và bồ tát (Quan Công, bà Thiên Hậu, ông Bổn, Nam Hải Quan Âm...)
Học: Chữ Hán
Văn nghệ: hát, múa, hài kịch... với nhiều loại nhạc cụ: tiêu, sáo, các loại đàn (tỳ bà, nhị, nguyệt...), chập choã... Múa lân, sư tử, rồng...