Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc có dân số ít ở Việt Nam. Người Cờ Lao ở Việt Nam vốn từ Trung Quốc di cư sang.
Người La Ha tự gọi mình là La Ha, Klá và Phlạo và được các tộc người khác gọi bằng các tên khác nhau như: Xá Khắc, Phlắc, Khlá Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa... Người La Ha có 2 nhóm là La Ha Ủng - người La Ha ở nước (làm ruộng nước) và Khlá Phlạo hay La Ha Plạo - người La Ha ở cạn (làm nương rẫy).
Dân tộc La Ha
- Tên thường gọi: La Ha
- Tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo.
- Tên gọi khác: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
- Nhóm địa phương: La Ha cạn (Khlá Phlao), La Ha nước (La Ha củng).
- Dân số toàn quốc (2019): 10.157 người, cư trú chủ yếu ở Sơn La. Dân tộc La Ha là một trong 16 dân tộc thiểu số rất ít người, được hưởng nhiều chế độ, chính sách về y tế, giáo dục, an sinh xã hội của Chính phủ. Ở Lâm Đồng, dân tộc La Ha có 8 người, hiện cư trú ở huyện Di Linh.
- Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Hoạt động sản xuất: nương rẫy du canh du cư và săn bắt, hái lượm.
Ăn: Lương thực chính là gạo nếp chế biến theo cách đồ thành xôi, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Thực phẩm thường được ướp chua, nướng, lùi hoặc sấy khô để dành. Phụ nữ ăn trầu.
Mặc: Trước kia đàn ông búi tóc sau gáy. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, có chồng búi tóc trên đỉnh đầu giống người Thái Ðen
Ở: Nhà sàn , bố cục trong nhà chia làm hai phần, phần để tiếp khách rộng từ 1/2 đến 2/3 diện tích nhà. Ngăn giữa phần chủ và khách là một cột buộc hũ rượu cần bên cạnh.
Phương tiện vận chuyển: Gùi, trâu kéo, ngựa thồ.
Quan hệ xã hội: Người La Ha sống theo làng bản là Khun cai, hai người giúp việc Khun cai là Khun tang, Khun téng
Thờ cúng: Người La Ha thờ tổ tiên trong gian nhà "hóng"
Văn nghệ: Người La Ha hát, làm thơ bằng tiếng Thái khá thạo. Hai điệu múa đặc trưng là múa dương vật (linga) và múa cung kiếm