Người La Ha tự gọi mình là La Ha, Klá và Phlạo và được các tộc người khác gọi bằng các tên khác nhau như: Xá Khắc, Phlắc, Khlá Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ H
Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc có dân số ít ở Việt Nam. Người Cờ Lao ở Việt Nam vốn từ Trung Quốc di cư sang. Trải qua các thời kỳ lịch sử, các nhóm Cờ Lao đã di cư dần xuống phía Nam rồi vào Việt Nam. Những người Cờ Lao đầu tiên tới Việt Nam sớm nhất là cách đây khoảng từ 150 đến 200 năm. Những đợt di cư cuối cùng của họ đã chấm dứt cách đây khoảng 60 - 80 năm.
Dân tộc Cờ Lao
Tên tự gọi: Cờ Lao.
Tên gọi khác: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề,…
Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ.
Dân số toàn quốc (2019): 4.003 người; cư trú chủ yếu ở Hà Giang. Đây là một trong 16 dân tộc có số dân ít hơn 10.000 người được hưởng nhiều chính sách ưu đãi của Chính phủ về giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội khác.
- Ở Lâm Đồng, dân tộc Cờ Lao chỉ có 14 người (2019); cư trú rải rác trên địa bàn huyện Di Linh và TP. Đà Lạt.
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng với dân tộc La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai)
Ăn: Ngô chế thành bột mèn mén hoặc ăn cơm, quen dùng bát, thìa muôi bằng gỗ.
Mặc: Phụ nữ mặc áo cùng loại với áo người Nùng, Giáy nhưng dài quá gối áo được trang trí bằng những miếng vải đáp trên hò áo, ngực, tay áo.
Ở: Nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi xếp úp ngửa.
Phương tiện vận chuyển: Dùng ngựa để thồ hàng
Cưới xin: Tục lệ cưới xin khác nhau giữa các nhóm. Cách cưới kéo vợ hay cướp vợ như người Mông vẫn thường xảy ra.
Ma chay: Trong tang lễ có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay.
Thờ cúng: Thờ Thần đất.
Lễ tết: Dân tộc Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, Rằm tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.