Dệt thổ cẩm thủ công
Từ lâu đời, người K'ho sớm biết tự dệt vải tự sáng tạo nên trang phục của dân tộc mình. Phụ nữ K'ho từ nhỏ đã được mẹ, được bà dạy cho cách trồng bông, xe sợi, nhuộm, dệt thổ cẩm, lớn lên thường tự tay làm được trang phục cho cả gia đình.
Thổ cẩm thủ công dân tộc K'ho
Từ lâu đời, người K'ho sớm biết tự dệt vải tự sáng tạo nên trang phục của dân tộc mình. Phụ nữ K'ho từ nhỏ đã được mẹ, được bà dạy cho cách trồng bông, xe sợi, nhuộm, dệt thổ cẩm, lớn lên thường tự tay làm được trang phục cho cả gia đình. Để tạo nên một bộ trang phục truyền thống K'ho đẹp đòi hỏi sự kiên trì, khéo léo với nhiều công đoạn rất tỉ mỉ, công phu. Người phụ nữ có khi phải mất cả tháng trời ngồi bên khung dệt, vừa canh chỉ, tạo hình, sáng tạo nên những họa tiết, hoa văn cách điệu, mô phỏng thế giới nhân sinh sống động. Để tạo hoa văn độc đáo, người dệt đã gửi gắm cả tâm huyết, thể hiện khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng, hình ảnh họa tiết như được vẽ sẵn trong đầu, đều đặn phô diễn trên tấm dệt.
Màu chủ đạo của trang phục K'ho là màu sẫm, xanh đen tượng trưng cho màu của núi rừng, xen lẫn ít màu vàng, đỏ, trắng làm họa tiết. Đàn ông K'ho mặc áo chui đầu, đóng khố; riêng phụ nữ, bên cạnh áo và váy quấn quanh thân dưới thì trang phục quan trọng là tấm ùi bởi tính đa năng của nó và phù hợp với phong tục tập quán: có thể che nắng khi đi nương rẫy, làm khăn choàng khi tắm suối, làm chăn đắp khi trời lạnh, dùng để địu con khi làm mẹ... Để có những hoa văn, họa tiết, kiểu dáng của các loại trang phục váy áo thổ cẩm, đồng bào K'ho đã mất hàng ngàn năm, trải qua bao nhiêu thế hệ tích lũy, chọn lọc, tích tụ kinh nghiệm, sáng tạo. Việc bảo tồn trang phục dân tộc đi đôi với bảo tồn nghề dệt thổ cẩm, bảo tồn từ cách thức dệt đến cả chất liệu, màu sắc, kiểu dáng, hoa văn.
Nghề dệt thổ cẩm ở Lạc Dương tập trung ở thị trấn Lạc Dương và các xã Đưng K’nớ, Lát, Đạ Sar, Đa Nhim, Đạ Chais. Theo các nghệ nhân, già làng, người K'ho ngày xưa ăn mặc rất đơn giản, tất cả đều cởi trần, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn, khi trời lạnh lấy các loại vỏ cây ngâm cho hết nhựa rồi phơi khô, khoét lỗ chui đầu làm áo. Nghề làm trang phục truyền thống của dân tộc K'ho không ai biết có từ bao giờ, chưa có tài liệu nghiên cứu dân tộc học nào đề cập tới. Qua thời gian, nghề dệt vải và may trang phục của người K'ho từng rất phát triển. Nam giới K'ho thường ở trần, đóng một chiếc khố khá rộng, dài từ 1,5 đến 2 m có hình hoa văn theo dải dọc. Khố được quấn vòng quanh bụng, luồn qua hai chân, hai đầu khố quấn qua phía trước và phía sau mông. Phụ nữ K'ho ưa chuộng các bộ áo váy thổ cẩm, nên trang phục của phụ nữ trông rất đẹp mắt. Phụ nữ K'ho thường quấn váy dài đến đầu gối để lộ bắp chân to khoẻ khoắn, còn từ phần thắt lưng trở lên để trần. Những khi trời lạnh, họ thường khoác lên mình một tấm thổ cẩm to dài quấn quanh vai và người. Sau này phụ nữ thường mặc những chiếc áo bó, chẽn, phù hợp với chiếc váy truyền thống.
Nghề dệt vải chỉ phụ nữ thực hiện, trong quá trình dệt họ vừa phối màu tỉ mỉ, khéo léo, vừa tác tạo những hình hoa văn độc đáo theo tưởng tượng của mình. Họa tiết trên thổ cẩm thường hình khối, các vật dụng, đời sống sinh hoạt, hình chim muông, thú rừng, cây cỏ sinh động gần gũi thể sự cảm nhận thế giới tự nhiên của người thợ vào những tấm vải dệt.
Thổ cẩm của người K'ho có các hoa văn rất đặc trưng trên nền màu tối, màu trầm, đặc biệt là hai màu xanh và xanh đen được ưa chuộng. Trên một khổ vải (rộng 1,2 m theo khung dệt), phụ nữ K'ho thường tạo hai dải hoa văn hai bên mép vải. Người dệt tự tạo bố cục, cách sắp xếp sợi ngang và sợi dọc; họ tự suy tính bao nhiêu sợi màu này, bao nhiêu sợi màu kia, sắp xếp hợp lý để tạo ra được các hoa văn theo đúng ý đồ sáng tạo của mình.
Buôn B’Nớ C (nay là thôn Đăng Gia Dệt) là nơi sinh sống lâu đời của người Lạch (một nhánh của dân tộc K'ho) là cái nôi của nghề dệt thổ cẩm. Từ xưa, phụ nữ trong buôn ai cũng biết dệt thổ cẩm, nghề dệt phát triển, sản phẩm làm ra trở thành hàng hóa trao đổi với nhiều buôn làng trong vùng. Sản phẩm thổ cẩm chủ yếu của đồng bào K'ho là các tấm ùi, có đủ loại kích cỡ (dài 1,2 - 1,5 m; rộng 20 - 30 cm) tùy theo công dụng để làm váy áo mặc trong các dịp lễ hội, chăn đắp hay vải để địu con. Cả buôn hiện có hơn 70 hộ tham gia dệt thổ cẩm. Làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống được công nhận và phát triển, thổ cẩm trở thành hàng hóa có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách. Nhờ vậy, nhiều giá trị văn hóa đã được khôi phục lại và hồi sinh trong chính cộng đồng dân cư nơi đã sản sinh ra nó: trang phục dân tộc, ẩm thực, nghề truyền thống, các phong tục tập quán...
Tại xã Đưng K’nớ, hầu như tất cả phụ nữ đều biết dệt. Năm 2019, nghệ nhân Bon Niêng K’Glòng (sinh năm 1945 tại Thôn 1, xã Đưng K’nớ) được trao tặng danh hiệu vinh dự nhà nước “Nghệ nhân ưu tú” với loại hình di sản văn hóa phi vật thể đang nắm giữ là “Tri thức dân gian” (nghề dệt). Tuy nhiên, đời sống phát triển, đồng bào có thể lựa chọn nhiều loại trang phục may sẵn, tiện dụng, mau khô, thay vì bỏ công sức trồng bông, trồng đay, dệt vải, may thêu quần áo. Trang phục truyền thống chỉ được mặc trong các dịp lễ trọng đại, ngày hội. Nghề dệt đang dần bị mai một. Để bảo tồn trang phục truyền thống thì phải bảo tồn nghề dệt, các đối tượng được hỏi đa phần cho biết cần tuyên truyền là chính, một số khác rất ít thì cho rằng cần phục hồi nguồn nguyên liệu, kỹ thuật, gắn kết với các Chương trình như Nông thôn mới, gắn kết phát triển du lịch, mở các lớp truyền dạy nghề dệt cho phụ nữ...
Tại 3 xã Đa Nhim, Đạ Chais và Đạ Sar, trước kia trang phục truyền thống đồng bào sử dụng được mua chủ yếu ở những xã lân cận. Hiện nay, phụ nữ ở đây vẫn sử dụng trang phục truyền thống trong đời sống hàng ngày, nam giới chỉ sử dụng trong các dịp lễ hội của buôn làng. Năm 2015, tổ chức Jica đã tài trợ cho việc truyền dạy nghề dệt thổ cẩm, xã Đạ Nhim có 8 phụ nữ được tham gia chương trình này. Kết quả, hiện có 7 người trong chương trình truyền dạy này còn nắm giữ các kỹ năng, hiểu biết cách thức dệt. Ngoài trang phục truyền thống thì họ còn dệt thêm túi, cặp đeo chéo làm quà lưu niệm để tăng thu nhập. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều người đã không còn mặn mà đối với việc lưu giữ các trang phục truyền thống cũng như giá trị của nghề dệt.
Bên cạnh nghề dệt, các tri thức dân gian liên quan đến trang phục truyền thống vẫn còn được lưu truyền như: Trong quá trình dệt người thợ dệt đã rút ra những bài học để truyền lại cho con cháu bằng văn vần dân gian ngắn gọn, súc tích. Chẳng hạn, người K'ho Cil nhắc nhở con cháu quy trình dệt vải bằng câu: rồi - riă - tiăh - tành, nghĩa là kéo chỉ - vào thoi - kết hai đầu khổ dệt - tiến hành dệt. Nghệ nhân Ưu tú Bon Niêng K’Glòng và nghệ nhân K’Tuyn (Đưng K’nớ) vẫn miệt mài hàng ngày bên tấm dệt, cho biết, quy trình dệt vải được gói gọn trong 4 từ rồi - riă - tiăh - tành, nhưng để thực hiện chu trình đó cần một thời gian dài và bao gồm rất nhiều chi tiết tỉ mỉ.
7.2 Thổ cẩm thủ công dân tộc Mạ
Trong cộng đồng người Mạ không phải nhóm địa phương nào cũng có nghề dệt. Đây là nghề mang tính gia truyền và phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của thị trường. So với các nhóm người Mạ ở địa phương khác, người Mạ ở Lộc Tân (Bảo Lâm) và Bun Go (Cát Tiên) có nghề dệt phát triển hơn cả.
Các tài liệu nghiên cứu cho thấy nghề dệt của người Mạ trước đây chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng cư trú. Sản phẩm dệt của người Mạ dùng để trao đổi, buôn bán với các nhóm địa phương cùng tộc và khác tộc. Tuy nhiên số lượng không lớn. Bởi vậy công việc dệt vải thường chỉ diễn ra trong thời gian nông nhàn, ngoài thời kỳ canh tác nương rẫy. Phụ nữ người Mạ trực tiếp dệt ra các sản phẩm, tuy nhiên đàn ông lại tham gia trau chuốt các công cụ dệt. Để có một tấm dệt đẹp dùng làm ùi (váy của phụ nữ), ồi (tấm đắp)… hay quan trọng hơn là tấm vải nghi lễ dùng trong hôn nhân, tang ma, lễ hội… người phụ nữ Mạ phải dành rất nhiều thời gian và tâm huyết. Dệt với người Mạ không chỉ tạo ra những sản phẩm vật chất thuần túy mà đó cò là sự kết tinh giữa đôi bàn tay khéo léo và óc thẩm mĩ.
Người Mạ là một trong ba dân tộc tại chỗ ở Lâm Đồng sống tập trung chủ yếu ở các huyện Bảo Lâm, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Cũng như người K'ho và một số tộc người khác ở Tây Nguyên trước đây, ngoài kinh tế nương rẫy và săn bắt, hái lượm, người Mạ còn có các nghề thủ công truyền thống từ lâu đời để phục vụ cho cuộc sống tự cung tự cấp của dân tộc mình; đặc biệt trong đó có nghề dệt thổ cẩm. Chỉ với một bộ khung dệt tự chế 12 thanh vừa gỗ vừa lồ ô rất đơn sơ, gọn nhẹ nhưng người Mạ đã tạo nên những tấm thổ cẩm với những đường nét, họa tiết hoa văn rất sinh động.

Ảnh: Hoa văn trên thổ cẩm của người Mạ
Màu sắc được sử dụng nhiều trên thổ cẩm Mạ thường là các màu đỏ, đen, xanh, nâu, vàng, trắng. Nhưng màu trắng vẫn được sử dụng nhiều hơn cả. Khác với người K'ho và đa số các dân tộc bản địa khác ở Tây Nguyên, người Mạ thường chọn màu trắng làm chủ đạo để tạo nền cho tấm thổ cẩm. Trong khi các dân tộc khác ở Tây Nguyên lại thiên về chọn những gam tối màu như xanh, đen để làm nền cho thổ cẩm. Vì vậy mà các họa tiết hoa văn của người Mạ được nổi bật và tươi sáng hơn. Nguyên liệu để tạo màu của người Mạ đều được lấy từ trong tự nhiên nơi họ sinh sống . Đó là các loại củ, quả và lá cây rừng như: củ nghệ, củ nâu, lá cây tràm, cánh kiến và cả đá non có màu đỏ, vàng, than củi… tất cả đều được giã nhỏ hoặc mài bột ngâm để nhúng nhuộm sợi. Tỉ lệ pha chế tạo màu hoàn toàn theo kinh nghiệm và bí quyết của các nghệ nhân.
Trước đây người Mạ dệt từ sợi cây leo mọc hoang trong rừng mang tên Karsi. Sau này họ đã biết trồng và sử dụng bông vải để tạo chỉ nguyên liệu. Mỗi công đoạn của nghề dệt dều có những phức tạp mà không chỉ chăm học hỏi là có thể làm được. Trong đó khâu nhuộm sợi đòi hỏi sự am hiểu cao trong việc pha chế thuốc nhuộm. Những màu nhuộm truyền thống của người Mạ gồm: đen, đỏ, vàng, xanh dương, trắng. Đó là sự kết hợp của những loại cây, lá, củ trong rừng. Dù chủng loại màu sắc không quá phong phú song không thể hạn chế sự sáng tạo thẩm mĩ của người Mạ.
Để tạo hoa văn trên thổ cẩm, ngoài việc dùng những thanh công cụ nhỏ đẩy luồn sợi khi dệt, người phụ nữ Mạ còn khéo léo dùng tay luồn sợi thêu trên tấm vải. Họ vừa dệt vừa thêu, dệt tới đâu thì thêu tới đấy.Trong quá trình dệt, người Mạ thêu họa tiết không cần dùng kim thêu, đây cũng là một nét độc đáo của người Mạ. Cũng như người K'ho, người phụ nữ Mạ thường dệt hoa văn không theo một đồ án định trước và khuôn mẫu nhất định nào cả mà phần nhiều là do ngẫu hứng với cảm quan của người dệt đối với sự vật, thế giới xung quanh theo cách nhìn, cách nghĩ của họ. Hoa văn trên thổ cẩm của người Mạ được tạo bởi dệt và thêu. Thường các hoa văn lặp đi lặp lại theo chu kỳ như dạng hình học, hình kỷ hà, đường viền… thì dùng kỹ thuật dệt; còn các hình người, cây cối, chim muông và các vật dụng phần lớn là dùng kỹ thuật thêu.
Đề tài, họa tiết trang trí trên thổ cẩm của người Mạ phổ biến là hoa văn hình học, hình kỷ hà, sóng nước, hình người, muông thú và các vật dụng gần gũi quen thuộc gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của họ như: cối, chày giã gạo, cây nêu, cầu thang nhà sàn, quả bầu, cây đa, con thằn lằn, con vượn, con rắn nước, chân quạ, đường mòn, dấu chân loài vật, chiếc lược, chiếc ô, ngôi sao, cán xà gạt, các đường ziczac… Đặc biệt là các đề tài hoàn toàn ngẫu hứng bất chợt xuất hiện trong đầu như khi nhìn thấy con chuồn chuồn đang bay, con khỉ, con vượn… hay một vật nào đó họ cũng có thể đưa vào trang trí trên tấm vải đang dệt của mình. Ngày nay, ngoài những hoa văn truyền thống, người Mạ còn đưa vào trang trí trên thổ cẩm cả những vật hoàn toàn mới mẻ như chiếc máy bay, cây thánh giá, ngôi sao…
Chính sự phong phú, đa dạng của màu sắc, đề tài trang trí đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho thổ cẩm của người Mạ cũng như trang phục của họ. Nó mang một sắc thái riêng không giống với các tộc người khác ở Lâm Đồng nói riêng và Tây Nguyên nói chung. Hoa văn trên các sản phẩm dệt truyền thống của người Mạ là những hoa văn kỷ hà, hoa văn xoáy nước, các con vật, bông hoa… được cách điệu hóa. Hoa văn được phối màu hoàn hảo, chặt chẽ về bố cục, hài hòa về màu sắc, tinh xảo trong cách thể hiện. Sự kì công tỉ mỉ qua đôi bàn tay của người thợ đã tạo tác hoa văn bằng cách đan sợi. Các hình mẫu hoa văn đã “nằm” sẵn trong đầu của người thợ dệt để rồi “lộ” ra qua thao tác của đôi bàn tay. Bởi vậy cùng với sự phối màu, mật độ và độ phức tạp của các hoa văn đã tạo nên những sắc thái riêng biệt của thổ cẩm Mạ. Và trồng bông, dệt vải đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Mạ nói riêng và cư dân Mạ nói chung trên mảnh đất Nam Tây Nguyên.