Đồng bào Xơ-đăng có một quá trình lịch sử rất lâu đời sinh sống tại vùng Bắc Tây Nguyên.
Dân tộc Ê Đê
- Tên thường gọi: Ê Đê
- Tên gọi khác: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), Ê-đê, Êgar, Ðê.
- Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê.
- Dân số cả nước: 398.671 người; cư trú ở Đắk Lắk, Đắk Nông, Phú Yên,…
Ở Lâm Đồng: Dân tộc Ê đê chỉ có vài chục người, cư trú rải rác trên địa bàn huyện Di Linh và TP. Đà Lạt.
Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Người Ê Đê cũng là tộc người duy nhất ở Việt Nam đặt tên theo cấu trúc Tên trước Họ sau, có thể là kết quả ảnh hưởng của văn hóa Pháp.
Nguồn gốc lịch sử: Người Ê-đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền Trung Tây Nguyên.
Trang phục: Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu, trang phục là áo và khố (Kpin). Nữ Ê Đê để tóc dài. Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân.
Ở: Nhà sàn Ê Đê có hình con thuyền dài 15 đến 100m, thậm chí vài trăm mét tùy theo gia đình ít hay nhiều người, sàn thấp, cửa chính mở phía trái nhà, cửa sổ mở ra phía hông.
Gia đình: Theo chế độ mẫu hệ, con cái theo họ mẹ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Hôn nhân: Phụ nữ giữ vai trò chủ động. Người Ê-đê có tục ở rể và “nối dòng”.
Lễ hội truyền thống: Có nhiều lễ hội, đặc trưng cúng bến nước.